Thứ sáu, 26/04/2024

Giáo Án Giáo Lý Lớn Lên Trong Chúa Thánh Thần Phần II

Cập nhật lúc 14:55 29/05/2018

PHẦN II: ĐỜI SỐNG TRONG CHÚA KITÔ

Bài 17: TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
 
Lời Chúa:  “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do”. (2Cr 3,17)
Ý chính   : 1. Tự do là gì ? (1Cr 6,12-14.19-20).
                   2. Giá trị và trách nhiệm mỗi người (1Pr 2,16)
Tâm tình  : Sung sướng cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban tự do cho con người.
Chuẩn bị: Tấm hình Chúa đang gõ cửa, hay hình một cánh chim đang bay
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp: GLV niềm nở đón tiếp các em bằng một sự chân thành. Có thể phân công cho các em dọn lớp và góp phần với GLV chuẩn bị bài mới
2. Thánh hóa: Lạy Chúa, sau khi sáng tạo muôn loài muôn vật, Chúa đã thực hiện công việc quan trọng nhất là dựng nên loài người giống hình ảnh Chúa. Xin Chúa giúp chúng con học biết cách làm đẹp lòng Chúa.
3. Giới thiệu tổng quát phần II và dẫn vào bài mới:
Trong 16 bài học trước, chúng ta đã tuyên xưng đức tin về những chân lý căn bản của đạo Công giáo:
- Chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất mà Người có Ba Ngôi: Chúa Cha sáng tạo muôn loài, Chúa Con cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa.
- Chúng ta tin Chúa Giêsu đã thiết lập Hội thánh công giáo và hằng ở cùng Hội thánh cho đến tận thế.
- Chúng ta tôn kính đặc biệt Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta.
- Chúng ta tin ơn sống lại và đời sống vĩnh cửu.
Niềm tin của chúng ta không chỉ là một nhận thức của trí khôn, cũng không chỉ là lời nói dù chân thành của miệng lưỡi, nhưng còn và nhất là còn tuyên xưng bằng chính đời sống thường ngày của chúng ta.
Vì thế, trong phần II này, chúng ta sẽ lắng nghe Chúa dạy cách sống phù hợp với Đức tin để biến đổi đời sống hàng ngày chúng ta thành lời tuyên xưng đích thực.Mời các em bắt đầu bằng việc tìm hiểu món quà quí báu Chúa tặng ban cho con người, đó là tự do.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập:
Các em đã đến sở thú bao giờ chưa? Trong sở thú có rất nhiều những con vật. Những con vật ấy không phải lo tìm thức ăn, cũng không sợ những con vật khác ăn thịt, nhưng trông con vật nào cũng ủ rũ, buồn rầu vì chúng không được tự do. Vậy tự do là gì? Tự do quan trọng thế nào? Mời các em cùng đọc 1Cr 6,12-14.19-20 (Mời đứng).
      B. Công bố Lời Chúa: 1Cr 6,12-14.19-20    -   Sau khi nghe Lời Chúa, thinh lặng giây lát  rồi gợi ý:
. Thánh Phao lô dạy chúng ta phải biết sử dụng tự do cho hợp lý vì đó là món quà quí giá nhất mà Thiên Chúa trao tặng cho loài người. Xin Chúa giúp chúng ta mở lòng đón nhận Lời Chúa dạy và đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống chúng ta. (Mời ngồi)

C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
1Cr 6,12-14
 
Gl 5,13
 
 
 
 
 
Rm 7,15
2Cr 3,17
1. Tự do là gì ?
  • Thánh Phaolô nói về tự do thế nào?
  • Ngài cho ta thấy con người chúng ta khác với loài vật, “được phép làm mọi sự”
  • Nhưng “không phải mọi sự đều có ích”. Ví dụ: Game là những trò chơi giải trí giúp em rèn luyện trí nhớ, sự thông minh , lanh tay lẹ mắt. Nhưng nếu mê chơi game đến độ bỏ học, trốn lễ, hành xử bạo lực… thì đó là điều xấu
  • “Không để sự gì làm chủ được tôi”. Con người có khả năng nhận biết việc tốt, việc xấu và có trách nhiệm chọn làm điều tốt, không làm điều xấu, và do đó chịu trách nhiệm về các hành vi của mình.
  • Con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người nên ước muốn sâu xa nhất của con người là luôn hướng về sự thiện là Thiên Chúa. Con người tự bản chất là tốt (“nhân chi sơ tính bản thiện”) nhưng tội lỗi đã làm cho con người ra yếu đuối,  hướng về điều xấu hơn điều tốt. Muốn có được tự do đích thực, con người phải đón nhận Thần Khí Thiên Chúa: “Chúa là Thần Khí và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do”. Nhờ Thần Khí Chúa, chúng ta vừa được ơn soi sáng để biết đâu là tốt, đâu là xấu, đâu là điều có ích lợi thực sự, đâu chỉ là hư ảo..., chúng ta vừa được ơn can đảm để chọn và thực hiện điều tốt, điều mang lại ích lợi thực sự...
  • Con người chỉ thực sự cảm thấy được tự do khi sống trong điều thiện, khi làm điều thiện và khi qui hướng về Thiên Chúa. Con người chỉ được tự do đích thực khi con người biết dùng tự do để phục vụ điều thiện. Tự do ấy đạt tới mức hoàn hảo khi qui hướng về Chúa là Sự Thiện tuyệt đối.
 
 
 
Tự do là khả năng chọn lựa, nhờ đó mà con người có thể cân nhắc, quyết định và chịu trách nhiệm về các hành vi của mình. (75)
 
 
 
Con người được tự do đích thực khi biết dùng tự do để phục vụ điều thiện. Tự do ấy đạt tới mức hoàn hảo khi qui hướng về Chúa là Sự Thiện Tuyệt Đối. (76)
 
 
 
1 Pr 2,16
2. Giá trị và trách nhiệm của tự do.
a. Giá trị: Loài vật hành động theo bản năng, nhưng con người cao trọng hơn muôn vật, biết phân biệt điều hay lẽ phải, biết chọn lựa làm điều tốt và chịu trách nhiệm về sự chọn lựa này, vì con cái Thiên Chúa thì hành động tự do. Thánh Phêrô khuyên: “Anh em hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa”.
b. Trách nhiệm:
  • Thiên Chúa ban cho con người tự do và Ngài tôn trọng tự do ấy. Ngài không định đoạt, áp đặt ta phải làm điều này, điều kia nhưng nhắc nhở ta qua tiếng nói lương tâm: Khi làm điều tốt, em thấy vui, khi làm điều xấu, em thấy buồn bã, ân hận. Thiên Chúa cũng nhắc nhở ta qua những người có trách nhiệm để giúp ta sử dụng tự do tốt nhất, đúng nhất và đem lại lợi ích cho chúng ta.
  • Như thế, mọi người phải chịu trách nhiệm về các việc làm tự do của mình. Con người có thể lạm dụng tự do để chối bỏ điều thiện và khi đó trở thành nô lệ tội lỗi. Tự do làm cho hành vi của ta trở nên đáng thưởng hay đáng phạt. Vậy, mọi người phải chịu trách nhiệm về các việc làm tự do của mình.
Tự do đem lại giá trị luân lý cho các hành vi của con người. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về những gì mình làm một cách cố ý, tức là có ý thức và tự do. (77)
 
 
Con người có thể lạm dụng tự do để chối bỏ tình yêu Thiên Chúa và khi đó trở thành nô lệ tội lỗi. (78)
 
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng con được tự do để yêu mến Chúa. Xin cho chúng con luôn biết yêu thích điều tốt để trong tư tưởng, lời nói, việc làm chúng con luôn biết làm những điều đẹp ý Chúa và  không bao giờ lạm dụng tự do để làm phiền lòng Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
  • “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2 Cr 3,17).
  • Số 75- 78
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành: Câu chuyện dẫn đến thực hành:
Trong bức tranh nổi tiếng “Ánh sáng thế gian”, Holman Hunt đã vẽ Đức Kitô đang đứng trong một khu vườn lúc đêm khuya, tay trái cầm một cái đèn lồng, còn tay phải đang gõ lên một cánh cửa làm bằng những miếng gỗ dầy nặng nề.
Khi bức tranh được đưa ra trưng bày, một nhà phê bình đã góp ý với họa sĩ: “Thưa họa sĩ, tác phẩm của ông chưa hoàn tất: trên cánh cửa không có tay nắm”.
- “Đó là cánh cửa vào lòng con người”, Hunt trả lời, “Nó chỉ có thể mở ra từ bên trong”.
Thiên Chúa không áp đặt lề luật của Người trên chúng ta: chúng ta được tự do để mở ra hay đóng  cánh cửa tâm hồn lại với Chúa. Chúa chỉ nhắc nhở chúng ta là Người yêu mến chúng ta và muốn đến với chúng ta.
Thực hành: Em quyết tâm tham dự Thánh lễ hàng ngày, chuyên chăm học giáo lý và chỉ làm những điều đẹp lòng Chúa.
3. Bài làm ở nhà:  Em viết một lời cầu nguyện theo nội dung bài học hoặc vẽ hình người con hoang đàng lúc trở về đến nhà.
V. KẾT THÚC:
Các em thân mến, qua bài học hôm nay chúng ta đã biết được Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết bao khi Người ban cho chúng ta hồng ân lớn lao là sự tự do: chúng ta có thể tin yêu Chúa hay từ chối Chúa. Nhưng chúng ta chỉ có tự do thực sự khi chúng ta sống hướng thiện, làm sáng danh Chúa mà thôi. Ước gì mỗi chúng ta luôn biết chọn lựa điều hữu ích và tránh xa điều xấu để chúng ta luôn là những thiếu nhi tốt lành và được Chúa Giê su yêu mến.
 
………………………………………
 
Bài 18: NHÂN ĐỨC
 
Lời Chúa: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1,26).
Ý chính   : 1. Định nghĩa và phân loại (Gc 1,22-26).
                   2. Các nhân đức đối thần (1Tx 1,3).
Tâm tình  : Khao khát trở nên người tốt nhờ tập luyện nhân đức.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa: Lạy Chúa, chúng con chúc tụng và cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Ơn gọi làm người, làm Kitô hữu. Xin Chúa giúp chúng con luôn chăm chỉ học hành, rèn luyện tư cách, trau dồi tinh thần bằng những đức tính tốt, để chúng con trở nên những người con ngoan của gia đình, của Hội Thánh và của xã hội.
3. Giới thiệu bài mới: Thiên Chúa ban cho con người có tự do, nhờ đó, chúng ta biết chọn lựa và quyết chí làm theo điều tốt. Công việc này không phải dễ, chúng ta phải kiên quyết tập luyện để thành người có nhân đức. Đó là nội dung của bài hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập:
Sau khi được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức bên nước Pháp, chị Bec-na-đet-ta đã xin vào tu tại một tu viện thuộc dòng kín ở Nêvơ. Vào một ngày Chúa nhật năm 1876, một chị bạn đưa cho Bec-na-đet-ta xem một bức hình của chị mà người ta đã chụp được ở hang Lộ Đức trước đây. Đang chăm chú xem bức hình, đột nhiên Bec-na-đet-ta hỏi:
- Quét nhà xong, người ta để chổi ở đâu hả chị?
- Trong góc nhà, sau cánh cửa, chỗ “cư trú” thường lệ của nó.
- Đời em cũng thế, chị ạ! Đức Mẹ đã dùng em rồi đặt em vào chỗ của em. Khi nào cần, Ngài lại lấy em ra dùng. Lúc nào em cũng muốn ở phận hèn này để yêu mến Thiên Chúa”.
Các em thân mến, chị Bec-na-đet-ta đã có thái độ khiêm tốn và đức mến Chúa như vậy nhờ đâu? Mời các em  đọc Gc 1,22-26, thánh Giacôbê tông đồ sẽ giúp chúng ta khám phá ra bí quyết ấy. Mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa: Gc 1,22-26   -    thinh lặng giây lát  rồi gợi ý:
Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con lắng nghe và thực hành Lời Chúa qua những cách thế mà thánh Giacôbê tông đồ đã hướng dẫn, Xin Chúa mở tai, mở miệng con và ban cho con lòng yêu mến để luôn biết lựa chọn những điều tuyệt hảo và biết đem Lời Chúa ra thực hành. (Mời ngồi)

C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
 
Gc 1,22-26
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
1 Tx 1,3
1. Định nghĩa và phân loại.
a. Định nghĩa
  • Thánh Giacôbê đã hướng dẫn ta sống Lời Chúa thế nào? Hãy đem Lời Chúa ra thực hành
  • Thánh Phao lô dùng hình ảnh nào để diễn tả về những người nghe Lời Chúa mà không thực hành? Người soi gương rồi đi, và quên ngay mặt mình
  • Người thiết tha và trung thành tuân giữ luật Chúa thì được lợi ích nào?  Sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm.
  • Người đạo đức là người sống thế nào? Kiềm chế miệng lưỡi,  thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian
  • Cây giống khi được trồng xuống đất, phải được che nắng, tưới nước để tập làm quen với mưa nắng, phải được chăm bón tốt mới sống, lớn lên và có ngày đơm bông kết trái.
  • Con người, sau khi được cha mẹ sinh ra, cũng phải tập lẫy - tập bò - tập đi - tập ăn... mới có thể lớn lên và khỏe mạnh.
  • Muốn nên người tốt, ta phải tập luyện, phải thiết tha và trung thành tuân giữ, nghĩa là làm nhiều lần, phải tập luyện mãi cho đến khi thuần thục. Đó chính là nhân đức. Vậy nhân đức là thói quen tốt và bền vững giúp ta làm sự thiện cách dễ dàng hơn.
 
b. Phân loại
  • Có những những đức tính tốt căn bản mà ta có thể tập luyện được để xứng đáng với phẩm giá con người. Những thói quen tốt này gọi là nhân đức nhân bản. Bốn nhân đức nhân bản chủ lực là:
    • Đức khôn ngoan: giúp ta nhận rõ điều tốt cần làm và những phương tiện chính đáng để làm tốt điều ấy.
    • Đức công bằng: giúp ta luôn biết tôn trọng quyền lợi, tài sản của người khác và trả cho người khác những gì thuộc về họ.
    • Đức dũng cảm: giúp ta bền lòng, bền chí theo đuổi điều thiện dù gặp gian nan thử thách.
    • Đức tiết độ: giúp ta biết tự chủ trước sức quyến rũ của các thú vui trần gian và giữ được chừng mực khi hưởng dùng mọi sự ở đời này.
  • Có những nhân đức qui chiếu trực tiếp về Thiên Chúa giúp ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời. Những nhân đức này gọi là nhân đức đối thần.
  • Thánh Phaolô tông đồ tuyên dương cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vì những điểm nào? “những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô”.
  • Vậy, nhân đức đối thần là những nhân đức nào? Đức tin, đức cậy và đức mến.  
Nhân đức là thói quen tốt và bền vững giúp ta làm sự thiện cách dễ dàng hơn. (79)
 
 
Có hai thứ nhân đức:
- Một là các nhân đức nhân bản giúp ta hoàn thiện chính mình và sống tốt với mọi người.
-  Hai là các nhân đức đối thần, trực tiếp qui về Thiên Chúa, giúp ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời.  (80)
 
Có nhiều nhân đức nhân bản, trong đó bốn nhân đức chính: khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ. (81)
 
 
Có ba nhân đức đối thần là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. (82)
 
 
 
 
Lc 7,1-10; Mc 9,14-29; Mt 9, 20; Mt 13,16-17
Rm 4,18-24
Mc 16, 16
 
 
 
 
 
 
 
 
St 15,5; 3,15
Rm 4,21
Ga15,26;16,7
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Mt 26, 35.69-75;
Cv 4,19-20; 5,41
 
 
 
 
 
Gc 3,2;  1,26
 
2. Các nhân đức đối thần.
a) Đức tin:                                   
  • Sách Tân ước nhiều lần nhắc đến lòng tin và kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ nhờ lòng tin. Đó là những lần nào? Mời các em mở Tin mừng
  • Chữa người nô lệ của viên bách quản
  • Chữa người động kinh
  • Chữa người đàn bà loạn huyết 12 năm
  • Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Kitô, Con Thiên Chúa
  • Lòng tin của tổ phụ Abraham tác động thế nào đến đức tin và thái độ của người có lòng tin? ông được kể là người công chính, chúng ta sẽ được kể là công chính”
  • Người không tin vào Chúa có được cứu độ không? Không! “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”
  • Người tin Chúa thì hành động thế nào?
b) Đức cậy:
  • Khi mới sinh ra, em có tự mình lấy nước uống, lấy cơm ăn được không?
  • Hiện giờ em có tự làm ra tiền để đóng học phí, để mua thức ăn cho mình được không? Em phải cậy dựa vào ai? Không, em dựa vào cha mẹ
  • Thiên Chúa hứa ban cho Abraham người con thừa tự, hứa ban ơn cứu độ cho dân. Lời hứa ấy có được thực hiện không? Có,“Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện”
  • Trước khi về trời, Chúa Giê su hứa điều gì? Lời hứa và thực hiện ban Thánh Thần
  • Vậy, đức cậy là gì?
  • Ngày nay với các phương tiện khoa học kỹ thuật tiến bộ, người ta thường dễ có thái độ tự tin thái quá, dựa vào năng lực của con người mà thiếu tin cậy vào Thiên Chúa. Họ quên mất rằng, không có ơn Chúa thì con người không thể làm được điều gì; và nếu không được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn, con người sẽ bị lầm lạc, chẳng biết đường, biết hướng về đâu...
c) Đức mến:
  • Phêrô thể hiện lòng mến Chúa thế nào? Ông nói: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”, nhưng rồi ông đã chối Chúa. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Phêrô mới “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu”
  • Các Thánh Tông đồ, các thánh Tử đạo yêu mến Chúa đến sẵn sàng chịu chết. Mẹ Têrêsa Calculta thể hiện lòng mến Chúa qua việc chăm sóc, phục vụ những người vô gia cư, những người hấp hối, bệnh tật… Em cần làm gì để ơn Chúa Thánh Thần mà em đã lãnh nhận trong ngày Rửa tội và sẽ lãnh nhận trong ngày Thêm sức, giúp em đạt được các nhân đức nhân bản và nhân đức đối thần?  Em cần có sự cộng tác với Chúa Thánh Thần trong việc luyện tập thành thói quen.
  • Theo thánh Giacôbê, công việc luyện tập đầu tiên cần thiết và cụ thể nhất là gì? Là kiềm chế miệng lưỡi, bởi vì “ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân” và “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão”
Vậy: Muốn hoàn thiện, ta phải làm chủ bản thân. Muốn nên người nhân đức, ta phải kiềm giữ miệng lưỡi. Và khi ta kiên trì thi hành những điều thiện, ta sẽ xứng đáng là con cái Chúa và đáng hưởng hạnh phúc đời đời.
 
 
Đức Tin là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta trao phó trọn bản thân và đời mình cho Thiên Chúa, cùng đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa đã mặc khải mà Hội thánh truyền lại cho ta. (83)
 
 
 
 
Đức Cậy là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta dựa vào sức mạnh Chúa Thánh Thần mà vững lòng mong đợi hạnh phúc Nước Trời Chúa Giê-su đã hứa ban. (84)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Đức Mến là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và lại vì Chúa mà yêu thương mọi người như chính bản thân. (85)
 
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa là nguồn mạch mọi điều thiện hảo. Xin thôi thúc con biết khao khát các nhân đức, là những ân huệ của Chúa Thánh Thần, để con rèn luyện các đức tính tốt, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
  • “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1,26).
  • Số 79 – 85
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành: Câu chuyện dẫn đến thực hành:
Từ nhỏ, chị Têrêsa đã quyết tâm nên thánh. Chị muốn sớm được sống cuộc đời tận hiến nên khi mới 15 tuổi, chị đã xin vào dòng Kín. Vì chưa đủ tuổi nên chị bị từ chối. Nhưng Têrêsa vẫn kiên trì cầu nguyện và tìm đủ mọi cách xin được chuẩn tuổi. Thế rồi sau đó ít lâu chị được Đức Giáo Hoàng cho phép nhập dòng.
Khi vừa vào tu, Têrêsa bị Bề trên hiểu lầm nên chị bị đối xử rất nghiêm khắc, chị phải chịu nhiều hy sinh liên tục, bị trách mắng bất công, bị thử thách nhiều cách nhưng chị chỉ đáp lại bằng nụ cười. Nhờ đức tin, cậy, mến cao độ, chị Têrêsa đã vượt qua mọi khó khăn để trở thành vị thánh. Têrêsa qua đời ngày 30.09.1897, được Hội thánh tôn lên bậc Hiển thánh và được tôn phong là bổn mạng các xứ Truyền giáo.
Noi gương chị thánh Têrêsa, em quyết tâm không nói chuyện, quay ngang, quay ngửa... khi bước vào Nhà thờ.
3. Bài làm ở nhà: Em ghi kiểm điểm hàng ngày trong tuần này về việc tập luyện một nhân đức em muốn.
V. KẾT THÚC:
Luyện tập nhân đức là luyện tập làm con Chúa. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã giúp chúng ta hiểu được điều này. Xin Chúa luôn giúp chúng ta kiên trì cầu nguyện và tập luyện để xứng đáng làm con Chúa.
Kinh Sáng Danh...
 
……………………………………..
 
Bài 19: TỘI LỖI
 
Lời Chúa: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ” (Mt 23,25).
Ý chính   : 1. Tội là gì ? (Mt 23,25-28).
                   2. Phân loại và hậu quả của tội (1Ga 5,16-17).
                   3. Bảy mối tội đầu (Mt 15, 19-20).
Tâm tình  : Gớm ghét tội và xa tránh dịp tội để được làm con Chúa.
Chuẩn bị: Tranh Ađam - Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa:
Các em thân mến, tội lỗi vẫn luôn tạo nên những vực thẳm làm chúng ta xa cách Chúa. Chúng ta hãy nài xin Chúa cho chúng ta luôn khiêm tốn để nhận ra mình lầm lỗi - luôn thành thật để không tự dối mình và luôn say yêu học hỏi chân lý, để chân lý giải thoát chúng ta.
3. Giới thiệu bài mới:
Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Người và cho con người hưởng hạnh phúc với Chúa, nhưng con người đã sa ngã phạm tội. Không những tổ tông phạm tội mà cả chúng ta cũng đã phạm tội. Ta phậm tội khi ta xúc phạm, coi thường Chúa và ganh ghét anh em mình. Tội lỗi vẫn cứ đeo đuổi cám dỗ chúng ta, vì vậy, qua bài học hôm nay, chúng ta cần hiểu biết hơn về tội để khỏi sa chước cám dỗ.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập:
Có lần, thấy môn đệ chưa rửa tay mà đã vào bàn ăn, các Pharisiêu liền bắt bẻ: “Sao các ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Chúa Giêsu đã chỉ ra tính cách giả hình của họ bằng việc lặp lại lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7,1-7). Đó có phải là lần duy nhất Chúa Giêsu nói về việc này không? Không phải, trong một lần khác, Chúa Giê su còn chỉ trích nặng lời với họ hơn nữa, mời các em đọc Mt 23,25-28 (mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa: Mt 23,25-28    -    thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Vì sao Chúa Giêsu đã nặng lời với các kinh sư và Pha-ri-siêu? Vì họ chỉ chú trọng tới hình thức bên ngoài, coi thường Điều Răn của Chúa, cặn kẽ tuân giữ truyền thống tiền nhân, quên lãng cái cốt lõi của lề luật. Họ cố chấp và chai lỳ trong tội, nhưng lại cho mình là công chính. Đó cũng chính là lời cảnh tỉnh chúng ta trong nếp sống đạo hôm nay (Mời các em ngồi).

C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
 
 
Mt 23,25-28
 
St 3,1-24
 
St 4,1-8
St 37,28
 
Xh 32,1-6
Ga 8,1-4
Mt 26,14-16
1. Tội là gì?
  • Những người Do thái quan niệm thế nào về tội? Tội là không làm theo luật dạy, ví dụ: chưa rửa tay đã vào bàn ăn là ô uế, là tội.
  • Chúa Giêsu không khiển trách môn đệ khi họ vào bàn ăn mà không rửa tay. Ngược lại, các kinh sư và Pha-ri-siêu cặn kẽ giữ những tập tục cha ông thì lại bị Chúa Giêsu nặng lời chỉ trích.
  • Vậy tội là gì?
  • Không nghe theo Lời Chúa, Ađam- Evà ăn trái cây biết lành dữ, ông bà phạm tội gì?  Không vâng lời
  • Cain đã phạm tội gì? Giết người
  • Tại sao Cain giết Abel, em ông?  Ghen tức khi thấy Chúa thương nhận của lễ của Abel, còn của ông thì không.
  • Các anh của Giuse thấy Giuse được cha yêu thương, sinh lòng ghen ghét nên đã bán Giuse cho người Ismael: những người anh này đã phạm tội gì? bán em làm nô lệ
  • Dân Do thái đúc tượng và thờ lạy bò vàng. Họ đã phạm tội gì? Tội thờ tà thần xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng đã giải thoát họ
  • Người đàn bà bị bắt quả tang khi phạm tội gì? Tội ngoại tình
  • Giuđa, một môn đệ thân tín của Chúa Giêsu, đã bán Chúa Giêsu cho các thượng tế Do thái với gía 30 đồng bạc. Giuđa đã phạm tội gì? Tội phản bội
  • Và đến chúng ta, nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương mọi người như Chúa và Hội Thánh dạy, chúng ta cũng đang phạm tội. (GLV có thể kể ra những tội thuộc lứa tuổi các em thường phạm...).
  • Tóm lại, tội là lời nói, việc làm hoặc ước muốn nghịch với Luật Chúa, luật Hội Thánh. Tội xúc phạm đến tình yêu Thiên Chúa là Cha nhân từ và gây tổn thương cho bản thân cũng như cho tình liên đới với tha nhân.
 
 
Tội là lời nói, việc làm hoặc ước muốn nghịch với Luật Chúa. Tội xúc phạm đến Thiên Chúa, gây tổn thương cho bản thân và cho tình liên đới với tha nhân. (86)
 
 
1Ga 5,16-17
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ga 13,21-30
 
 
 
Mt 27,3-5
 
 
 
 Mt 25,5; 1Ga 5,16
 
 
 
 
Mt 18,8-9
2. Phân loại và hậu quả của tội.
a. Phân loại:
  • Trong 1Ga 5,16-17 thánh Gioan cho ta biết mọi điều bất chính là tội. Ngoài ra, Gioan còn đề cập đến những loại tội nào? Tội không đưa đến cái chết và  tội đưa đến cái chết
  • Như vậy, tội có 2 loại: Tội trọng (nặng) và tội nhẹ.
  • Một lỗi phạm là tội trọng khi có đủ 3 yếu tố:
  • Vi phạm luật Chúa và Hội thánh trong những điều quan trọng.
  • Hoàn toàn ý thức đầy đủ khi hành động.
  • Cố tình duy trì ước muốn, chờ cơ hội thực hiện hoặc đã thực hiện.
  • Một lỗi phạm là tội nhẹ khi thiếu một trong ba yếu tố trên.
  • Sự phân biệt này rất quan trọng không chỉ khi dọn mình xưng tội mà còn chính trong từng giây phút cuộc đời vì hậu quả khác biệt giữa tội trọng và tội nhẹ.
b. Hậu quả của tội:
* Tội trọng:
  • Giuđa Itcariốt đã phạm tội gì? Bán nộp, phản bội Chúa Giêsu
  • Trước lỗi phạm của Giuđa, Chúa Giêsu tỏ thái độ nào? Đau xót, buồn bã. Vậy, hậu quả đầu tiên của tội trọng là: Cắt đứt tình nghĩa với Chúa Giêsu và với Thiên Chúa. Người có tội trọng vì cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa nên không được Rước lễ khi tham dự Thánh lễ.
  • Từ khi dùng cái hôn mà trao nộp Chúa tại vườn cây Dầu, Giuđa có còn đi với các môn đệ khác không? Không, Giu đa tách biệt các môn đệ khác và cả các thượng tế. Vậy, hậu quả thứ hai của tội trọng là: Phá hủy sự sống và phẩm giá cao quí của con người, của người môn đệ Chúa. Vì sự sống bị phá hủy (chết về phần linh hồn), vì phẩm giá làm người, nhất là phẩm giá làm con Chúa nhờ Bí tích Rửa tội bị phá hủy nên mọi công việc hằng ngày không còn giá trị trước mặt Chúa, không tạo nên một công nghiệp đời sau.
  • Giuđa kết thúc cuộc đời thế nào? Ông treo cổ tự vẫn. Giuđa hối hận, dằn vặt vì tội mình nhưng ông không hối cải. Vậy, hậu quả cuối cùng của tội trọng là làm ta xa cách Chúa đời đời nếu ta không hối cải
  • Nhận biết những hậu quả tai hại của tội trọng như thế, chúng ta phải có thái độ nào?
  • Dứt khoát không những với tội mà còn với cả những dịp tội đưa ta tới chỗ phạm tội.
  • Khi đã lỡ phạm tội trọng, chúng ta phải thật lòng thống hối, lo liệu đi xưng tội ngay và dùng mọi phương thế để không tái phạm nữa.
* Tội nhẹ:
  • Tội nhẹ không gây hậu quả trầm trọng như tội trọng, nhưng cũng tác hại nhiều mặt:
+ Vết lọ mực trên áo sạch, trên khuôn mặt làm giảm vẻ đẹp thế nào thì tội nhẹ cũng làm cho linh hồn mất vẻ đẹp như thế.
+ Lòng yêu mến đòi hỏi thái độ hoàn hảo: càng yêu thương nhau, người ta càng cố gắng làm vừa lòng nhau. Một lỗi nhỏ đối với người chúng ta quí mến, làm đau lòng người đó nhiều. Tội nhẹ cũng vậy, làm phiền lòng Chúa là Đấng yêu thương ta nhiều và ta cũng muốn yêu thương Chúa nhiều. Tội nhẹ tác hại mối tương quan tình yêu này (GLV vận dụng những thí dụ trong tương quan tình bạn, tình cha mẹ...).
+ Tội nhẹ làm giảm bớt lòng yêu mến Chúa nên dễ hướng chiều về điều xấu và do đó dễ phạm tội trọng hơn.
  • Các em thân mến, việc phân loại và hiểu biết hậu quả của “tội trọng, tội nhẹ” không phải để các em chỉ cố gắng tránh xa tội trọng mà coi thường tội nhẹ. nếu không cẩn thận, vết thương nhỏ sẽ nhiễm trùng khó chữa. Cũng thế, nếu các em coi thường tội nhẹ, sẽ dễ dàng sa vào tội trọng, và có thể kéo theo nhiều lầm lỗi khác. Ước chi các em biết và cảm thấy mình được Chúa yêu thương để luôn tìm cách suy nghĩ và hành động tốt nhé.
Tội trọng là cố tình phạm luật Thiên Chúa trong những điều quan trọng mà ta kịp suy biết. (87)
 
Tội nhẹ là khi lỗi phạm một điều luật nhẹ hoặc một điều luật nặng nhưng chưa kịp suy biết đầy đủ hoặc chưa hoàn toàn ưng theo. (90)
 
Tội trọng phá hủy sự sống và phẩm giá cao qúy của con người ; đồng thời cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa, và nếu không hối cải, thì sẽ phải xa cách Người đời đời. (88)
 
Khi lỡ phạm tội trọng thì phải thực lòng thống hối và lo liệu đi xưng tội ngay, đồng thời dùng mọi phương thế để không tái phạm nữa. (89)
 
Tội nhẹ khiến ta giảm bớt lòng mến Chúa, dễ hướng chiều về điều xấu và dễ phạm tội trọng hơn. (91)
 
Mt 15,19-20
 
 
 
 
St 4,1-8
 
3. Bảy mối tội đầu.
  • Do thái giáo quan niệm: người ta bị mắc ô uế khi đụng vào xác chết, khi gặp người phong cùi, khi vào nhà dân ngoại, khi đụng vào máu, khi vào bàn ăn mà chưa rửa tay... Vậy, theo Chúa Giêsu, cái gì mới làm cho người ta ô uế?  Các em đọc Mt 15,19-20 … những suy nghĩ xấu từ trong tâm hồn làm cho người ta phạm tội
  • Những tội này lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen xấu, gọi là nết xấu. Có những nết xấu lại gây thêm những nết xấu khác nên gọi là nết xấu làm đầu hay mối tội đầu.
  • Tại sao Cain giết Abel? Vì lòng ghen mà Cain đã phạm vào tội giết người, giết em, nói láo... Ghen ghét là nết xấu lớn dễ phát sinh các tội khác nên gọi là “7 mối tội đầu”, đó là: kiêu ngạo, hà tiện, dâm ô, hờn giận, ăn uống, ghen ghét, lười biếng.
Các tội ta phạm thường do bảy nết xấu này, quen gọi là bảy mối tội đầu:
Một  là kiêu ngạo,
Hai         là hà tiện,
Ba  là dâm ô,
Bốn        là hờn giận,
Năm là mê ăn uống,
Sáu         là ghen ghét,
Bảy        là lười biếng. (92)
 
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Phạm tội là từ chối tình yêu của Chúa, sẽ phải sống xa cách Chúa. Xin giúp chúng con tránh xa dịp tội để khỏi phạm tội làm mất lòng Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
  • “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ” (Mt 23,25).
  • Số 86 - 92.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo lý cấp II.
2. Thực hành: Câu chuyện dẫn đến thực hành:
Vua thánh Louis có một bà mẹ rất thánh thiện, luôn nêu gương sáng cho con cái. Tối nào bà cũng đưa Louis vào giường ngủ, dịu dàng hôn lên trán con và nói: “Con ơi, mẹ thương con lắm nhưng thà mẹ thấy con chết trước mặt mẹ còn hơn là thấy con cố tình phạm tội trọng làm mất lòng Chúa”. Thế là, nhờ mẹ, Louis đã giữ được tâm hồn trong trắng suốt đời, xứng đáng là người con ngoan của Chúa.
Các em hãy bắt chước Louis, mỗi tối trước khi ngủ, em xét mình và sám hối lỗi lầm.
3. Bài làm ở nhà: Em viết vào vở và đọc mỗi ngày, nhất là buổi sáng vừa khi thức dậy: “Lạy Chúa Giêsu, con thà chết còn hơn phạm tội trọng làm mất lòng Chúa”.
V. KẾT THÚC:
Chúa rất yêu thương chúng ta, Người biết chúng ta yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội nên Người sai Chúa Thánh Thần đến giữ gìn, nâng đỡ và thêm sức mạnh để chúng ta chiến thắng cám dỗ và tội lỗi. Vậy chúng ta hãy sống trong tâm tình cảm tạ và cầu xin Chúa Thánh Thần trợ giúp ta.
Kinh Sáng Danh...
 
………………………………..
 
Bài 20: ƠN CHÚA
 
Lời Chúa: “Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5,17)
Ý chính   : 1. Định nghĩa và phân loại (Rm 5,15.17)
                   2. Ơn Chúa hoạt động nơi ta (2 Cr 9,8.10).
                   3. Cộng tác với ơn Chúa.
Tâm tình  : Khao khát lãnh nhận và cộng tác với ơn Chúa.
Chuẩn bị: Bình hoa tươi, giá sách, cuốn Kinh thánh.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa:
Hát bài “Hồng ân Thiên Chúa bao la” hoặc bài thích hợp.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập:
Lần kia, người ta khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: “Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà!” Lập tức người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.
Câu chuyện này cho ta thấy người bại liệt hoàn toàn bất lực, không tự đi lại được. Nhưng nhờ một lời nói đầy quyền năng của Chúa Giêsu, anh liền đứng dậy và đi về nhà. Đây là hình ảnh về ơn Chúa mà chúng ta muốn học hôm nay. Chúng ta hãy cùng đọc Rm 5,15.17 (Mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa: Rm 5,15.17   -   thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Câu chuyện người bất toại không đi lại được nhắc chúng ta về sự yếu đuối của con người: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm ; nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Con người trở nên vì tội nguyên tổ và tội riêng đã làm họ xa cách và mất ơn nghĩa với Chúa. Xin cho chúng ta biết sống khiêm tốn để những ơn lành Chúa ban trổ sinh hoa trái trong cuộc đời mỗi chúng ta. (Mời các em ngồi).

C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
Ga 5, 1-9
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Rm 8,14-17
 
 
 
1 Cr 12,4-11
1. Định nghĩa và phân loại.
  • Người bệnh 38 năm nằm ở bờ hồ Bếtdatha có tự đi xuống hồ khi nước động được không? Không
  • Đức Giê su chữa bệnh cho anh bằng cách nào? Chúa phán: “Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi”
  • Kết quả thế nào? Anh liền đứng lên được, đi được.
  • Nhờ đâu người bại liệt này đi được? Nhờ sự trợ giúp của Chúa Giêsu
  • Khi ai đó được nhà vua cho 1 quà tặng, họ thường trân trọng gọi đó là lộc vua. Khi em muốn đến nhà thờ A mà không biết đường, em thường hỏi thăm: “Xin làm ơn chỉ đường cho cháu đến nhà thờ A” … Sự trợ giúp của người khác dành cho mình thì gọi là ơn. Vậy, sự trợ giúp của Chúa thì gọi là ơn Chúa.
  • Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Thiên Chúa ban cho ta những ơn nào? Ơn tái sinh và đổi mới (sự sống mới, sự sống làm con Chúa). Ơn làm nghĩa tử, được gọi Thiên Chúa là cha: “Thần Khí làm cho chúng ta nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên “Ap-ba! Cha ơi”, được đồng thừa kế với Chúa Kitô. Ơn này Chúa chỉ ban cho mỗi người một lần có tính lâu dài trong suốt cuộc đời, gọi là ƠN THÁNH HÓA.
  • Trong suốt cuộc đời Kitô hữu, Thiên Chúa còn “giúp” chúng ta bằng những ơn sủng, gọi là ƠN TRỢ GIÚP. Thí dụ: ơn thông minh khi học bài, ơn can đảm khi gặp khó khăn; hoặc cho người này ơn tiên tri, người khác ơn chữa bệnh v.v...
Nếu không có ơn Chúa giúp, ta không sống đẹp lòng Thiên Chúa được, như lời Chúa Giê-su phán: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (93)
Ơn Chúa là sự trợ giúp Thiên Chúa ban, để ta sống xứng đáng là con cái Người và được dự phần vào sự sống thâm sâu của Ba Ngôi. (94)
Có 2 thứ ơn Chúa: Một là ơn thánh hóa có tính cách thường xuyên, hai là ơn trợ giúp tùy hoàn cảnh. (95)
 
 
Sách Ezra, Nehemia và Is 44,28
 
 
2 Cr 9,8.10
2. Ơn Chúa hoạt động nơi ta.
  • Kyrô, vua Ba tư cho dân Israel được hồi cư. Ông còn trả lại tất cả những đồ vật và tài sản của Đền thờ mà vua Nabucodonoso đã chiếm, lại còn cho phép xử dụng tất cả kho tàng toàn địa hạt Babel để tái thiết thành thánh và đền thờ... Đây chính là hình ảnh của ơn Chúa trợ giúp để mỗi người chúng ta tái thiết đền thờ Thiên Chúa nơi chính bản thân mình đã bị tội lỗi phá hủy.
  • Theo thánh Phaolô, ơn Chúa hoạt động nơi ta thế nào? “Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ”
  • Thánh Phaolô dùng hình ảnh nào để giúp ta tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa? Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng
  • Ân sủng Chúa ban giúp gì cho con người? Giúp họ được đủ điều kiện mà sống thánh, và sinh hoa kết quả dồi dào.
  • Ân sủng cần thiết cho con người thế nào?
  • Ân sủng khơi dậy và nâng đỡ con người, nhờ đó họ xứng đáng đón nhận ơn công chính, ơn thánh hóa
  • Ân sủng giúp ta duy trì, phát triển ơn Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.  Thiên Chúa luôn hỗ trợ để ta biết duy trì, phát triển ơn công chính đó trong suốt cuộc đời trần thế. Nhờ ân sủng của Chúa, các thánh Tử đạo dám hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin, thánh Đaminh Savio thà chết chứ không phạm tội …
 
 
 
 
 
 
Ơn Chúa thúc giục ta tin vào Chúa Ki-tô, rồi khi chịu phép Rửa tội ta được công chính hoá, tức là được tha tội, được thánh hóa và trở nên con người mới. (96)
 
3. Cộng tác với ơn Chúa.
  • 1 cái lu đậy nắp thì dù trời mưa lớn bao nhiêu, nước mưa cũng không vào được trong lu
  • Vua Kyrô cho dân Israel được hồi cư nhung nếu họ không về quê cũ, không xây dựng lại đền thờ thì những vật tư vua ban cho cũng trở nên vô ích. Tương tự như vậy, Thiên Chúa sẵn sàng trao ban ân sủng, nhưng con người có nhận và có sử dụng không, thì điều đó còn tùy thuộc mỗi người. Ơn cứu độ trao ban cho mọi người, nhưng nhiều người chưa đón nhận. Lại có những người đã đón nhận, nhưng chưa nỗ lực cộng tác, phát huy ân sủng của Chúa nên vẫn chưa sống tốt, sống thánh.
  • Vậy ta phải có thái độ nào để cộng tác với ơn Chúa?
  • Quí trọng hồng ân Bí tích Rửa tội, phải hết sức xa tránh tội, nếu lỡ phạm tội trọng thì phải đi xưng tội ngay để lấy lại tình trạng thánh thiện của người con Chúa.
  • Siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích, tham dự các buổi cử hành Phụng vụ.
  • Cầu xin và giúp mọi người chung quanh biết đón nhận ân sủng của Thiên Chúa.
 
 
 
Ta phải tỉnh thức để mau mắn đón nhận và nỗ lực cộng tác với ơn Thiên Chúa ban. (97)
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa, không có ơn Chúa nâng đỡ, chúng con sẽ chẳng làm được gì tốt đẹp. Xin cho chúng con biết trông cậy và cộng tác với ơn Chúa trong mọi nơi mọi lúc, để chúng con luôn sống xứng đáng là người con của Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
  • “Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5,17).
  • Số 93 - 97.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành: Em luôn cố gắng lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần và mở rộng tâm hồn đón nhận ân huệ của Người. Trong mọi công việc, em luôn cầu xin và trông cậy ơn Chúa trợ giúp.
3. Bài làm ở nhà: Em viết ngày em lãnh nhận Bí tích Rửa tội và ngày Xưng tội Rước lễ lần đầu vào vở.
V. KẾT THÚC:
 
……………………………………..
 
Bài 21: Điều răn 1
THỜ PHƯỢNG VÀ KÍNH MẾN THIÊN CHÚA
 
Lời Chúa: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5)
Ý chính   : 1.Vị thế đặc biệt của Thiên Chúa (Đnl 6,4-5.9.13 ; Mt 22,37).
                   2. Lòng tin, cậy, mến (Rm 5,2-5).
Tâm tình  : Luôn vui tươi vì có Chúa là Cha.
Chuẩn bị: Tranh Dân Israel thờ lạy bò vàng ở Sinai.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa:
- Nhắc các em thinh lặng, tập trung hướng về Chúa, làm dấu thánh giá.
- Cầu nguyện hướng ý: Lạy Chúa, nhờ học giáo lý, chúng con biết Chúa là Cha nhân ái, toàn năng, cao cả. Xin Chúa ban ơn giúp chúng con thờ phượng kính mến Chúa trên hết mọi sự, từ bây giờ và trong suốt cuộc đời chúng con. Với tâm tình đó, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học này.
- Kinh Lạy Cha...
3. Giới thiệu bài mới: (Giới thiệu tổng quát 10 điều răn và đặc biệt Điều răn 1)
Sống hạnh phúc và hạnh phúc đời đời vẫn là khát vọng thâm sâu của mọi người. Vì thế, con người luôn tìm kiếm những gì làm cho mình được hạnh phúc. Từ ngày tạo dựng, Thiên Chúa đã muốn làm cho con người được hạnh phúc (x. St 1,1-2,25). Nhưng tội lỗi đã làm mất hạnh phúc. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ký một giao ước tình yêu qua Mô-sê. Chúa dẫn đưa dân Do thái họ vào “đất hứa” và làm cho họ được hạnh phúc. Để giúp dân biết trung thành với giao ước đó, Thiên Chúa đã ban cho họ 10 Điều luật (x. Xh 19). Chúa Giêsu đã tái khẳng định và làm cho hoàn thiện, kiện toàn (x. Mt 5,17). Thực vậy, 10 điều răn chỉ có ý nghĩa đầy đủ ở trong Giao ước và là một khối duy nhất không thể tách rời nhau. Mỗi điều răn đều qui chiếu về tất cả các điều khác, các điều răn đều chi phối lẫn nhau (x. Jc 2,10). 10 điều răn nói lên những bổn phận căn bản của con người đối với Thiên Chúa (3 điều răn đầu tiên) và đối với tha nhân (7 điều răn sau). Vì thế, 10 điều răn có tính bắt buộc trong mọi thời đại và ở mọi nơi. Không có thẩm quyền nào được chuẩn miễn cho ai, 10 điều răn đã được Thiên Chúa ghi tạc vào lòng con người.
Giờ đây, chúng ta bắt đầu tìm hiểu giáo lý của mỗi điều răn mà điều răn 1 là Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập:
Trong phiên tòa năm 1836, viên quan án khuyến dụ sẽ tha bổng và cho làm quan nếu Tôma Trần Văn Thiện bỏ đạo, nhưng thầy chủng sinh ấy trả lời: “Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng chi danh vọng trần thế”. Tôma Thiện đã tử đạo ngày 21/09/1838.
Tại sao Tôma Thiện coi thường danh vọng, chấp nhận gian khổ, tù đày, đòn vọt? Lời Chúa trong sách Đệ nhị luật sẽ cho ta câu trả lời - Mời các em đứng.
B. Công bố Lời Chúa: Đnl 6,4-5.9.13 ; x. Mt 22,37  -  thinh lặng giây lát  rồi gợi ý:  
Bài trích sách Đệ nhị luật các em vừa nghe chính là Giới răn hay Điều răn I Chúa dạy, để giúp Israel trung thành tôn thờ một mình Thiên Chúa. Không được thờ thần linh nào khác. Đó là giới răn quan trọng nhất, là nghĩa vụ hàng đầu của con người và mọi nghĩa vụ khác đều phát xuất từ đó. Xin cho chúng ta luôn biết tôn thờ và yêu mến Chúa trong cuộc đời chúng ta. (Mời các em ngồi).
 
C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
 
 
 
St 3,15
 
 
 
 
 
 
 
St 6,5-8-14 St 19,1-24
 
 
 
 
 
1 V 8,60
 
 
Mt 4,10
 
 
Mt 15,8; Ga 2,17
 
Mt 11,37-39 Lc 9,23-26;
Mt 6,24
1. Vị thế tuyệt đối của Thiên Chúa:
  • Thiên Chúa có vị thế nào trong lịch sử?
    • Khi tạo dựng, Thiên Chúa muốn con người được hạnh phúc. Con người chỉ có hạnh phúc đích thực khi biết sống liên kết với Người
    • Khi tổ tông phạm tội, Thiên Chúa có bỏ loài người không? Không, nhưng đã hứa ban ơn cứu độ.
  • Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ thế nào? Người đã chọn gọi Abraham để thiết lập một dân mới, chọn gọi Môsê giải thoát dân riêng khỏi ách nô lệ Ai cập. Thiên Chúa hằng dẫn dắt dân riêng qua các tổ phụ, các ngôn sứ... và cuối cùng sai Con Một của Người là Chúa Giêsu Kitô xuống thế làm người để giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa về làm con Thiên Chúa.
  • Thiên Chúa yêu thương em thế nào?  Chúa cho em sự sống, tài năng... để kiến tạo hạnh phúc. Chúa mời gọi mọi người đón nhận ơn cứu độ để thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
  • Trong Cựu ước, những người không thành tâm tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa gặp những tai họa nào? Lụt Hồng thủy, thành Sôđôma và Gômôra bị tiêu diệt…
  • Trong lịch sử dân Dothái: Khi trung thành với Thiên Chúa, họ được thịnh vượng, bình an; Khi bỏ Thiên Chúa mà thờ các thần khác, họ bị cảnh cáo và nếu chai lì, không trở với Thiên Chúa sẽ mất hạnh phúc, gặp tai họa về vật chất và tinh thần …
  • Tất cả những sự kiện ấy đều cho ta thấy vị thế tuyệt đối của Thiên Chúa trong tâm hồn và đời sống của từng người cũng như của cả tập thể, xưa nơi dân riêng Do thái, nay nơi dân mới là Hội thánh: Thiên Chúa là Đấng duy nhất phải tôn thờ - ngoài Thiên Chúa ra không có thần linh nào khác.
  • Chúa Giêsu khẳng định vị thế tuyệt đối này thế nào khi Ngài chống trả cơn cám dỗ của Satan? “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”
  • Ta phải tôn thờ Chúa thế nào?
  • Tôn thờ không chỉ bằng môi miệng, cũng không chỉ trong tâm trí nhưng phải bằng tất cả con người: suy nghĩ, lời nói, đời sống.
  • Tôn thờ Chúa trên hết mọi sự: trên cả cha mẹ, vợ con, ruộng vườn... và trên cả chính mạng sống mình, không làm tôi hai chủ
  • Tóm lại, điều răn thứ nhất dạy thờ phượng một mình Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự. Vậy, chúng ta phải tôn thờ Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Người vì Thiên Chúa là Đấng tốt lành và yêu thương ta.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Điều răn thứ nhất dạy thờ phượng một mình Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự. (98)
Lc 12,22-32
 
 
 
 
 
Rm 5,2-5
 
 
 
 
 
Mt 9, 2-22; 15,8; Mc 10,52; 16,17
 
Lc 12, 22-32
 
 
 
 
 
 St 3,15; Lc 1,45; Ga3,16
2. Lòng tin, cậy, mến đối với Thiên Chúa:
  • Chúa Giêsu khuyên chúng ta tin tưởng ở Thiên Chúa thế nào? “Chim không gieo, không gặt, không có kho lẫm, thế mà không con nào bị bỏ chết đói”. “Bông huệ ngoài đồng, không kéo sợi, không dệt vải, thế mà dầu sang trọng như vua Sa-lô-môn cũng không có được một chiếc áo đẹp như thế”. “Vậy hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn các thứ kia Người sẽ thêm cho”
  • Thánh Phaolô nói về lòng tin, cậy, mến phải có đối với Thiên Chúa thế nào? “Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta”
a) Lòng tin:
  • Cựu ước để lại cho ta chứng tích thời danh nào về lòng tin của các tổ phụ? Lòng tin của Abraham
  • Tân ước kể lại việc những người bệnh tật như người đàn bà bị loạn huyết 12 năm, người động kinh … đến với Đức Giêsu và đã được cứu chữa. Nhờ đâu họ được chữa lành? Nhờ lòng tin
  • Chúa Giê su dạy ta sống lòng tin thế nào? Ngài dạy ta tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, vận mạng, cuộc sống chúng ta ở trong tay Chúa,
  • Em cố gắng sống tốt, em đi học giáo lý vì em tin Chúa và biết Lời Chúa là chân thật. Như thế, đời sống luân lý của ta bắt nguồn nơi niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta.
  • Vậy, em tin những gì? Em tin những gì Thiên Chúa đã mạc khải và Hội thánh dạy về chân lý đức tin và luân lý.
 
b) Lòng cậy:
  • Lịch sử cứu rỗi cho thấy Thiên Chúa là ai? Ngài là Đấng Trung thành thực hiện lời hứa, nhẫn nại và giàu lòng xót thương. Chúa Giêsu đã thực hiện trọn vẹn lời hứa của Thiên Chúa.
  • Em chứng tỏ em trông cậy nơi Chúa bằng cách nào? Em vững tin vào Thiên Chúa là Đấng Quyền năng luôn quan phòng và hướng dẫn cuộc đời em, em phó thác mọi sự trong tay Chúa, nhất là trong những lúc gian truân, thử thách.
c) Lòng mến:
  • Chúa Giê su yêu mến Chúa Cha thế nào? Người yêu mến đến độ chỉ làm theo ý Cha
  • Người yêu mến Chúa thì phải làm gì? Vâng giữ Lời Chúa.
  • Các thánh là những người đã vâng giữ Lời Chúa, em biết vị thánh nào có lòng yêu mến và vâng giữ Lời Chúa cách đặc biệt? Thánh Têrêsa Hài Đồng không từ chối Chúa điều gì …
  • Em chứng tỏ lòng yêu mến Chúa chân thành của em bằng cách nào? Em luôn làm điều tốt, vâng lời cha mẹ, thầy cô trong những điều phải đạo, tôn kính và vâng lời các Linh mục, GLV để lướt thắng cám dỗ…
 
 
 
 
 
 
 
 
Phải tin kính Thiên Chúa với tất cả lòng thành, không bao giờ nghi ngờ hoặc chối bỏ những gì Thiên Chúa đã mặc khải và Hội thánh dạy phải tin. (99)
 
Phải trông cậy vững vàng, luôn phó thác mọi sự trong tay Chúa và mong chờ phúc lành Chúa ban đời này cũng như đời sau. (100)
 
 
Ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự và mau mắn làm theo ý Chúa để đáp lại tình Chúa thương ta. (101)
 
D. Cầu nguyện:Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận biết và thờ phượng kính mến Chúa trên hết mọi sự, vì Chúa là Cha toàn năng toàn ái, và vì thờ phượng Chúa là một việc chính đáng và phải đạo.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
  • “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5)
  • Số  98 - 101.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo lý cấp II.
2. Thực hành: Trước khi định làm việc gì, em tự hỏi: Chúa có muốn tôi làm việc này không?
3. Bài làm ở nhà: Em quét dọn và trang trí lại bàn thờ tại gia đình cho đúng niềm tin Kitô giáo.
V. KẾT THÚC.
Học giáo lý để biết thực thi những gì Chúa muốn, đó là cách tôn thờ đẹp lòng Thiên Chúa, đồng thời cũng để tránh xa những lầm lạc, em quyết không xem những sách báo xấu, những phim ảnh nguy hại đến đức tin, làm chúng ta xa cách Chúa.Chúng ta tạ ơn Chúa.
 Kinh Sáng Danh...
 
………………………………………
 
Bài 22: Điều răn 2
TÔN KÍNH DANH THIÊN CHÚA
 
Lời Chúa: “Chúc tụng Danh Thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời !
                   Ca ngợi Danh Thánh Chúa ! Từ rạng đông tới lúc chiều tà !” (Tv 112,2-3).
Ý chính   : 1. Tôn kính Danh Thiên Chúa (Tv 112,2-3).
                   2. Tội nghịch Điều răn 2 (Lv 19,12)
                   3. Lời thề (1 V 20,12-13).
Tâm tình  : Tin kính Danh Thiên Chúa.
I. ỔN ĐỊNH
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa: Lạy Chúa, nhờ hồng ân Bí tích Rửa tội, chúng con được mang danh Kitô hữu. Xin cho chúng con luôn biết kính tôn Danh Chúa, và cảm thấy niềm vui vì được mang tên là Kitô hữu và là sự hiện diện của Chúa giữa trần gian.
II. EM NGHE LỜI CHÚA
A. Dẫn nhập:
Người Việt Nam tôn trọng những bậc vị vọng trong xã hội nên thường gọi họ bằng các chức danh hoặc gọi tên kèm theo chức danh. Ví dụ: Bác sĩ A, ông trùm B … Chúng ta cũng rất kính trọng cha mẹ nên không rất dễ nổi nóng khi ai đó xúc phạm đến cha mẹ mình. Mỗi chúng ta được mời gọi tôn thờ Thiên Chúa, nghĩa là tôn kính Danh Thiên Chúa. Thánh vịnh đã nói lên tâm tình phải có đối với Thiên Chúa. Mời các em hợp lòng chúc tụng Danh thánh Chúa qua Tv 112,2-3 (Mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa: Tv 112,2-3
 “Chúc tụng Danh Thánh Chúa,
Tự bây giờ cho đến mãi muôn đời !
Ca ngợi Danh Thánh Chúa,
Từ rạng đông cho đến buổi chiều tà !”
thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Lạy Chúa, lời Thánh vịnh chúng con vừa đọc đã nói lên tâm tình chúc tụng, ca ngợi và tôn kính Danh Thiên Chúa. Xin cho chúng con luôn biết ngợi khen và tôn vinh Chúa trong suốt cuộc đời chúng con.

C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
Tv 112,2-3
 
 
 
 
 
 
Xh 3,1- 15
 
 
 
 
Lv 11,44
Tv 99,3
Lc 1,49
1. Tôn kính Danh Thiên Chúa.
  • Trong 4 dòng của Tv 112,2-3 vừa đọc, “Danh Thánh Chúa” được nhắc tới mấy lần? 2 lần.
  • Người Việt Nam ta tỏ lòng tôn trọng tên gọi của mỗi người thế nào?
  • Trong dân gian, người Việt Nam thường gọi nhau theo số thứ tự. Ví dụ: Anh Hai - chị Ba - cô Tư... Có nơi gọi tên cha bằng tên người con trưởng (con cả).
  • Khi đặt tên cho em bé mới sinh, cha mẹ tránh đặt trùng tên với người trong họ hàng, láng giềng.
  • Trong thi cử ngày xưa, những bài thi phạm húy sẽ bị loại tức khắc và thí sinh bị cấm thi một hoặc nhiều năm
  • Tại núi Co-rép (Khoreb), Thiên Chúa tỏ mình cho Môsê qua hình thức nào? Bụi cây bốc cháy mà cành lá không bị thiêu rụi
  • Tại sao Thiên Chúa bảo Mô sê bỏ dép ra? Vì chỗ ông đang đứng là đất thánh
  • Thiên Chúa mạc khải tên của Người cho Môsê thế nào? Tên Người là “Đấng Tự Hữu”
  • Tại sao Chúa cho Môsê biết tên của Chúa?
  • Để ông can đản thực hiện lệnh Chúa truyền là dẫn dân ra khỏi Ai Cập
  • Cho biết tên của mình là điều thuộc về lãnh vực tâm sự và thân mật. “Thiên Chúa là Thánh”
  • Tỏ cho ta biết về Chúa vì tên Người cao cả và danh Người thật chí thánh, chí tôn
  • Bởi vậy, con người không được lạm dụng Danh Thánh Thiên Chúa. Điều răn thứ hai dạy ta bổn phận tôn kính Danh Thánh Thiên Chúa với tâm tình chúc tụng, ngợi khen và tôn vinh vì Danh Người là Thánh.
 
 
 
 
 
 
 
 
Điều răn thứ hai dạy ta bổn phận tôn kính Danh Thánh Thiên Chúa, vì Danh Người là Thánh (102)
 
 
1Sm 28,3-10
 
Lv 19,12
 
 
 
 
 
 
Tv144,13-18
Đnl23,22-24
 
2. Tội nghịch Điều răn 2.
  • Vua Sao-ul ăn ở bất chính, mất nghĩa cùng Giavê! Ông không tuân lệnh Chúa trong trận chiến với quân A-la-mếch. Ông đóng giả dân thường đến nhờ bà đồng bóng tại En-Đor chiêu hồn ngôn sứ Samuel và lấy danh Chúa mà thề sẽ không phạt vạ bà. Vua đã phạm vào điều Chúa đã cấm: “Các ngươi không được lấy Danh Ta mà thề gian”.
  • Vậy ta phải tôn kính Danh Thiên Chúa bằng cách nào?
  • Không được lạm dụng hay sử dụng cách bất xứng thánh Danh Thiên Chúa, Đức Mẹ, các thánh và Hội thánh vì Chúa Giêsu là Đầu Hội Thánh. Thí dụ: lấy danh Chúa mà thề: “Có Chúa làm chứng, tôi thề...”
  • Giữ lời thề hứa với Chúa. Trong cuộc sống xã hội, con người đã không chấp nhận thái độ “hứa cuội”, “hứa hão”, “cho nhau leo cây”, “hứa lèo”,v.v.... Khi đã nại đến vinh dự, sự trung thành, sự chân thật và uy quyền của Thiên Chúa là Đấng luôn trung thành mà quyết tâm làm điều gì vì lòng tôn kính Danh Chúa, chúng ta buộc phải thực hiện.
  • Không thề gian thề dối, giả vờ thề để đánh lạc hướng hoặc để che đậy một sự thật.
Những tội nghịch điều răn thứ hai:
- Một sử dụng cách bất xứng Danh Thánh Thiên Chúa, Chúa Giê-su, Đức Mẹ và các Thánh,
- Hai là không giữ những điều đã thề hứa nhân danh Thiên Chúa,
- Ba là nói phạm đến Thiên Chúa và Hội thánh,
- Bốn là thề gian. (103)
 
1V 20,12-13
 
 
 
 
 
 
 
 
Mt 5,34.37
3. Lời thề.
  • Khi Đavit báo cho Gio-na-than biết vua Sao-ul có ý định giết mình, Gio-na-than đã có thái độ nào? Ông đã lấy danh Giavê để bảo chứng cho lời ông nói. Đó là lời thề.
  • Thề là lấy Danh Thiên Chúa làm chứng cho sự khẳng định của mình, nghĩa là lấy sự chân thật của Thiên Chúa để bảo chứng cho lòng chân thật của mình.
  • Trong cuộc sống xã hội, ta buộc phải tôn trọng sự thật, cần chi phải thề thốt. Trong những việc thật hệ trọng như phải làm chứng cho sự thật trước tòa án, trước các vị lãnh đạo tôn giáo có thẩm quyền biết sự thật, ta mới được  thề.
  • Các em hãy nhớ Lời Chúa dạy: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỉ”. Hãy sống đơn sơ, chân thật trong lời nói cũng như trong hành động.
 
 
 
Chỉ khi có việc thật hệ trọng hoặc bề trên đòi buộc thì ta mới được lấy Danh Thiên Chúa mà thề. Khi đó, ta buộc phải giữ đúng lời thề để tôn trọng danh dự và uy quyền của Thiên Chúa. (104)
 
D. Cầu nguyện:Lạy Chúa Giêsu, sứ mệnh của người tông đồ là làm cho mọi người nhận biết và tôn thờ Danh Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết sống yêu thương theo gương Chúa, để qua đời sống chúng con, mọi người nhận biết và ngợi khen Danh Cha trên trời.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
  • “Chúc tụng danh thánh Chúa,
Tự giờ đây cho đến mãi muôn đời !
Ca ngợi danh thánh Chúa !
Từ rạng đông tới lúc chiều tà !” (Tv 112,2-3).
  • Số 102 - 104
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo Lý  cấp II.
2. Thực hành: Khi nghe Thánh Danh Giêsu, em nghiêm trang kính cẩn cúi đầu.
3. Bài làm ở nhà: Em viết tên thánh vào các sách của em.
V. KẾT THÚC.
Để thể hiện lòng tôn kính Danh Chúa, các em cùng đứng lên dâng lời ca tụng Thiên Chúa.
Hát bài thích hợp hoặc Kinh Sáng Danh...
 
………………………………..
 
Bài 23: Điều răn 3
THÁNH HOÁ NGÀY CHÚA NHẬT
 
Lời Chúa: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần,... Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,19-20).
Ý chính   : 1. Nguồn gốc ngày Chúa nhật (Xh 31,15-17).
                   2. Ý nghĩa ngày Chúa nhật (Ga 20,19-22).
                   3. Thánh hóa ngày Chúa nhật (Lc 2,41 ; Cv 2,42 ; Hc.PVT 14).
Tâm tình  :  Hân hoan vì được Chúa Giêsu giải thoát khỏi ách tội lỗi nhờ sự chết và sống lại của Người. Ta hãy sống ngày Chúa nhật trong tâm tình mến Chúa và yêu thương anh em.
Chuẩn bị: Tranh vẽ: Linh mục đang dâng thánh lễ.
I. ỔN ĐỊNH
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần. Xin cho chúng con biết tham dự tích cực, ý thức, sinh động và đầy đủ Thánh lễ ngày Chúa nhật và tận tình giúp đỡ mọi người cùng tham dự Thánh lễ như thế.
3. Giới thiệu bài mới:
II. EM NGHE LỜI CHÚA
A. Dẫn nhập:
Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, thời An-ti-ô-cô, vua An-ti-ô-cô truyền mọi người phải bỏ các thần linh của mình để thờ thần Ba-al. Dân Do thái bị bắt buộc phải bãi bỏ các lễ nghi nơi thánh điện và các truyền thống Do thái giáo, đốt phá sách giao ước. Ai bất tuân sẽ bị án tử hình. Nhiều người Do thái đã yếu lòng nên tuân theo lệnh nhà vua. Tuy nhiên, một số khác quyết tâm thờ Thiên Chúa và tuân giữ lề luật giao ước. Những người này ẩn trốn vào rừng núi, sa mạc. Các viên chức nhà vua đuổi theo và bắt gặp họ trong hang ẩn trú. Quân lính tấn công, những người Do thái trung thành với đạo không đánh trả lại, không ném một hòn đá, dù họ có tới ngàn người với đầy đủ vũ khí, dư sức chống trả quân lính. Họ bị giết vì tuân giữ luật ngày Hưu lễ (x. 1 Mcb 2,29-38).
Hưu lễ là ngày gì mà những người Do thái trung thành với lề luật đã đành chịu chết hơn là chiến đấu chống cự lại để được sống ? Sách Xuất hành cho ta biết lý do, chúng ta hãy lắng nghe - mời đứng
B. Công bố Lời Chúa:
Lời Chúa trong sách Xuất hành (Xh 31,15-17)
“Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là một ngày Sabát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Đức Chúa: kẻ nào làm việc trong ngày Sabát sẽ bị xử tử. Con cái Israel sẽ giữ ngày Sabát, nghĩa là nghỉ ngơi trong ngày đó, qua mọi thế hệ: đó là một giao ước vĩnh viễn. Đó là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và con cái Israel ; vì trong sáu ngày Đức Chúa đã dựng nên trời đất, nhưng ngày thứ bảy Người đã ngưng các việc và nghỉ xả hơi”.
  • Đó là Lời Chúa.
thinh lặng giây lát  rồi gợi ý:
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con tôn thờ Thiên Chúa. Xin cho chúng con không chỉ biết ngợi khen và tôn vinh Chúa bằng lời nói nhưng còn được biểu lộ trong thái độ và hành động của chúng con đối với ngày Chúa nhật. (Mời ngồi)
 
C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
Lv 35,3;
Ds 15,32-36; Lc 6,2
 
1 Mcb 2,29-38
 Ga 4,23
1. Nguồn gốc ngày Chúa nhật.
  • Dân Do thái dành ngày thứ bảy làm ngày lễ nghỉ (Hưu lễ) để tôn thờ Thiên Chúa và nghỉ ngơi thể xác để tưởng nhớ công trình sáng tạo “Đức Chúa dựng nên vũ trụ trong 6 ngày, ngày thứ 7 người nghỉ ngơi và chúc lành cho vạn vật nên ngày đó là ngày lành thánh, nghiêm cấm tất cả mọi sinh hoạt lao động, không được đốt lửa, mót củi, bứt bông lúa ăn” v.v...
  • Ngày Hưu lễ được cử hành như một ngày tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi ách Ai cập, mà Thiên Chúa đã thực hiện dưới sự lãnh đạo của Môsê. Việc tuân giữ luật Hưu lễ quan trọng đến độ người Do thái đành chịu chết để trung thành với đạo hơn là được sống mà vi phạm luật Chúa.
  • Tuân giữ ngày Hưu lễ là cách tôn thờ đẹp lòng Chúa nhất
Sabat theo tiếng Do thái nghĩa là nghỉ ngơi, là ngày thứ bảy trong tuần lễ sáng tạo và tưởng nhớ biến cố Thiên Chúa giải thoát dân khỏi nô lệ Ai cập. Thiên Chúa truyền cho Israel phải giữ ngày sabat để tôn thờ Đức Chúa (Xh 20, 8-11)
 
 
St 1,1-5
Ga 20,19-22
 
St 2,7
 Ga 20,22
 
 
Cv 4,20
Ep 4,23-24 2Cr 5,15.17
 
 
St 2,2-3 ; Xh 20,8-11
 
 
 
 St 1,5
 
Ga 21,12; Lc 24,30
2. Ý nghĩa ngày Chúa nhật.
a) Cuộc sáng tạo mới:
  • Thiên Chúa đã khởi công sáng tạo trời đất muôn loài, muôn vật vào ngày nào? “ngày thứ nhất” trong tuần
  • Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết vào ngày nào trong tuần? “ngày thứ nhất”
  • Ngày xưa, Thiên Chúa đã “thổi hơi” trên xác thể con người vừa được tạo thành, làm cho con người có sinh khí, có sự sống ; ngày nay Chúa Giêsu Phục sinh đã làm cử chỉ nào để ban Thánh Thần cho các tông đồ? Ngài “thổi hơi” và ban Thánh Thần làm cho các ông được bình an, được vui mừng và ra đi loan báo Tin mừng cho muôn người.
  • Chúa Kitô Phục sinh đã biến đổi nỗi buồn, lo sợ của các tông đồ trở thành niềm vui, trở thành sức sống mới “những gì tai đã nghe, mắt đã thấy không thể không nói ra” dù bị ngăn cản, tù đầy... Như vậy, ngày Chúa sống lại trở thành ngày sáng tạo mới, ngày thứ nhất của mọi ngày: mọi sự được đổi mới trong Chúa Kitô
b) Ngày lễ nghỉ mới:
  • Dân Israel được mời gọi cử hành ngày Hưu lễ vào ngày thứ bảy (sabát) noi gương Thiên Chúa, Đấng đã nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy, sau 6 ngày làm việc tạo dựng trời đất muôn vật. Chúa Giêsu Kitô đã Phục sinh vào ngày thứ nhất trong tuần, sau ngày Hưu lễ. Như vậy, ngày Chúa nhật vượt khỏi ngày Hưu lễ của Cựu ước để bước sang một ngày Hưu lễ mới: ngày Chúa Phục sinh.
  • Chúa Giêsu sống lại sau khi “an nghỉ” trong mồ ngày Hưu lễ.  Bữa ăn bên bờ hồ Tibêria là lúc Chúa mời gọi các Tông đồ và toàn thể cộng đoàn tín hữu đến dự tiệc với Người. Như vậy, ngày Chúa nhật hoàn tất ý nghĩa ngày lễ nghỉ Do thái và hướng tới sự nghỉ ngơi muôn đời của con người nơi Thiên Chúa.
 
 
 
Ngày Chúa nhật có những ý nghĩa này:
- Một là nhắc nhớ việc sáng tạo mới, được thực hiện nhờ cuộc Phục sinh của Chúa Ki-tô vào ngày “thứ nhất trong tuần”,
- Hai là hoàn tất ý nghĩa ngày lễ nghỉ Do thái và hướng tới sự nghỉ ngơi muôn đời nơi Thiên Chúa. (106)
 
 
 
 
 
Lc 2,41
 
Cv 2,42
 
 
 
 
St 2,2
 
 
 
 
 Mc 3,1-5
3. Thánh hóa ngày Chúa nhật.
a) Tham dự Thánh lễ:
  • Dân Do thái có thường làm gì trong ngày Hưu lễ và ngày lễ Vượt qua? Họ đến đền thờ Giêrusalem hoặc các Hội đường để đọc Sách Thánh và hát Thánh Vịnh. Vào ngày Đại lễ Vượt Qua, toàn dân hành hương về Giêrusalem để tham dự các nghi lễ. Chính Chúa Giêsu và cha mẹ Người đã cùng cộng đoàn Do thái tuân giữ cặn kẽ các ngày Hưu lễ và Đại lễ Vượt Qua
  • Cộng đoàn tín hữu thời các tông đồ có thói quen nào? Họ cử hành và tham dự “nghi lễ bẻ bánh”(Thánh lễ)
  • Do đó, việc đầu tiên người tín hữu phải làm trong ngày Chúa nhật là tham dự Thánh lễ. Việc tham dự này phải là sự tham dự tích cực, ý thức, sinh động và đầy đủ (x. HcPVT số 14).
b) Nghỉ việc phần xác:
  • Thiên Chúa đã làm gì sau  khi tạo dựng vũ trụ và con người? Người nghỉ ngơi ngày thứ bảy
  • Cũng vậy, cuộc sống của con người cần có những thì giờ nghỉ ngơi. Ngày Chúa nhật được đặt ra giúp mọi người được nghỉ ngơi và rảnh rang vun trồng đời sống gia đình, sinh hoạt văn hóa, xã hội và tôn giáo.
c) Làm việc thiện:
  • Chúa Giêsu chữa người bại tay vào ngày nào?  Vào một ngày Hưu lễ
  • Câu chuyện này cho thấy rõ ý muốn của Chúa Giêsu về ngày Chúa nhật: Người muốn chúng ta làm việc thiện, bác ái, thăm viếng, giúp đỡ người bệnh tật, neo đơn, giúp đỡ và phục vụ trong khiêm tốn, vui tươi và quảng đại
Để thánh hóa ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc, ta phải dự thánh lễ, nghỉ việc xác và nên làm thêm các việc lành, như tham dự các giờ kinh chung, làm các việc bác ái và tông đồ.  (105.107)
 
Theo luật Hội
thánh , ta phải tích cực tham dự thánh lễ Chúa nhật từ đầu đến cuối, trừ khi được miễn chuẩn vì lý do chính đáng. Nếu ai cố tình bỏ lễ thì mắc tội trọng.  (108)
 
 
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhật là ngày Hội thánh mừng kính mầu nhiệm Phục sinh đem lại sự sống mới cho chúng con. Xin giúp chúng con biết thánh hóa ngày Chúa nhật để tôn thờ Chúa bằng việc dự lễ và làm những việc bác ái.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
  • Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,19-20).
  • Số 105- 108.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo Lý  cấp II.
2. Thực hành: Câu chuyện dẫn đến thực hành:
Kayak là một thiếu niên chăm học, nhà nghèo và lại là con trai lớn. Em vừa đi học vừa lo làm rẫy để giúp đỡ ba và kiếm miếng cơm manh áo cho gia đình. Bỗng mấy hôm liền, cô giáo không thấy em đến lớp, cô đến thăm, nghe tiếng rên, thì ra ba của Kayak ốm nặng, em phải ở nhà chăm sóc thuốc thang. Nhà có bò, phải bán để trả tiền thuốc. Cô giáo vào thăm người bệnh rồi ra gặp Kayak, em thưa: “Chắc em phải nghỉ học, cô ạ! Ba em đau, không ai ở nhà làm việc giúp má. Bỏ học, thấy cô buồn, em đau lòng lắm”. Cô giáo động viên: “Em cố gắng đi học lại, học một buổi, ở nhà một buổi. Chúa nhật nghỉ học, em tranh thủ làm thêm”. Kayak trả lời ngay: “Ngày Chúa nhật, mình đi lao động sao được ? Không đi nhà thờ được thì phải ở nhà đọc kinh cầu nguyện chứ cô! Cô biết không, ngày Chúa nhật nào, gia đình em cũng họp nhau cầu nguyện và đọc Lời Chúa. Thôn em không có nhà thờ nhưng em không bao giờ bỏ cầu nguyện. Ngày Chúa nhật, mình đi lao động sao được cô ?”
Noi gương em Kayak, em luôn tham dự đầy đủ và sốt sắng thánh lễ Chúa nhật.
3. Bài làm ở nhà:
Ngày Chúa nhật tới, em tranh thủ đi thăm một bệnh nhân rồi em ghi vào tập bài làm cảm tưởng của em sau khi thăm bệnh nhân đó.
V. KẾT THÚC. …..
 
……………………………………………
 
Bài 24:  Điều răn 4: THẢO KÍNH CHA MẸ
 
Lời Chúa: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi” (Đnl 5,16)
Ý chính   : 1. Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam (Đnl 5,16).
                   2. Lòng hiếu thảo của Tin mừng (St 13,1-12 ; 42,1-45,15).
Tâm tình  : Sung sướng và tạ ơn vì được sống đầm ấm trong gia đình.
Chuẩn bị: Tranh ảnh về gia đình.
I. ỔN ĐỊNH
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu mến và vâng lời Đức Maria và Thánh Giuse trong suốt cuộc đời. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa để yêu mến và vâng lời cha mẹ chúng con.
3. Giới thiệu bài mới:
Sau ba giới răn về Thiên Chúa, 10 điều răn hướng tới những con người sống chung quanh ta mà trước tiên là những người sống trong cùng một gia đình. Chúng ta sẽ học về lòng thảo kính cha mẹ.
II. EM NGHE LỜI CHÚA
A. Dẫn nhập:
Các em đọc truyện sự tích hoa cúc trắng chưa? Anh (chị) tóm tắt câu chuyện thế này nhé!
Một cậu bé khóc lóc thảm thiết vì mẹ cậu bệnh nặng mà trong nhà không còn gạo ăn và không có tiền mua thuốc. Ông Bụt hiện đến và bảo cậu hãy leo lên ngọn núi cao tìm 1 bông hoa trắng đem về thì mẹ sẽ khỏi bệnh. Cậu bé trải bao gian khó mới tìm được bông hoa, nhưng bông hoa ấy chỉ có 8 cánh. Như vậy nghĩa là mẹ cậu chỉ sống thêm được 8 ngày nữa. Cậu bé chạy vội về nhà và trước khi trao bông hoa cho mẹ, cậu bé xé nhỏ những cánh hoa. Nhờ đó, mẹ cậu sống lâu hơn và cũng từ đó hoa cúc trắng có nhiều cánh nhỏ
Chuyện sự tích hoa cúc trắng đã nói lên lòng hiếu thảo của người con đối với mẹ mình. Người Á đông chúng ta có truyền thống hiếu kính tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Còn đạo Công giáo dạy thế nào ? Chúng ta hãy nghe sách Đệ nhị luật dạy - Mời đứng
B. Công bố Lời Chúa: Lời Chúa trong sách Đệ nhị luật (Đnl 5,16)
“Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi”.
- Đó là Lời Chúa.
thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải hiếu thảo với mẹ cha. Khi sống dưới mái nhà Nadarét, Chúa đã nêu gương cho chúng con về lòng hiếu thảo. Xin cho chúng con luôn biết luôn vâng lời cha mẹ mà chăm chỉ học hành để trở thành những người con ngoan của Chúa. (Mời ngồi)
 
C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
1. Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam.
  • Từ ngàn xưa, ông cha ta rất coi trọng đạo hiếu, nên tội bất hiếu là tội lớn nhất. Con cái phải biết ơn cha mẹ, người con bất hiếu sẽ bị làng xóm chê cười, xã hội coi khinh. Đạo hiếu được ghi lại rất nhiều trong tục ngữ, ca dao và trong các bài hát. Em biết những bài hát hoặc câu ca dao nào? Hãy đọc cho cả lớp nghe! “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu... Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”….
  • Những từ ngữ và hình ảnh trong những câu các em vừa đọc  nhắc ta nhớ về tình thương của mẹ: 9 tháng cưu mang, bú mớm, giúp tập ăn, tập nói, tập đi, tập làm... và công ơn trời biển của người cha phải vất vả “hai sương một nắng” để nuôi nấng con cái và giáo dục chúng theo đúng đạo làm người
  • Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam dạy ta thảo kính đối với ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi  qua đời. Thảo kính không chỉ là kính trọng mà còn là sẵn sàng giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần lúc các ngài cần đến.
 
 
 
 
 
 
 
Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam dạy ta thảo kính đối với ông bà cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. (109)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Đnl 5,6
Lc 2, 51-52
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
St 13,1-12
 
 
 
 
 
St 45,14
2. Lòng hiếu thảo theo Hội thánh công giáo.
Giáo lý Công giáo củng cố, kiện toàn đạo hiếu của dân tộc Việt Nam.  Giới luật hiếu thảo được đặt liền sau 3 giới luật về Chúa nhắc chúng ta về bổn phận với cha mẹ, với những người trong gia tộc và với anh chị em.
a) Bổn phận đối với cha mẹ:
  • Trong chương trình của Thiên Chúa, gia đình là nơi con người tập sống yêu thương, giúp đỡ, chia sẻ cho nhau những lợi ích vật chất và tinh thần. Gia đình chính là Hội thánh tại gia
  • Sách Đệ nhị luật và đạo Công giáo nhắc chúng ta nhớ rằng: Đạo hiếu là lệnh truyền, là giới răn của Thiên Chúa
  • Chúa Giê su đã nêu gương sống hiếu thảo thế nào trong gia đình Nazaret? Người luôn vâng lời, yêu thương và kính trọng cha mẹ
  • Hội thánh Công giáo dạy tín hữu về lòng hiếu thảo:
+ Ta phải tôn kính cha mẹ vì các ngài được Chúa đặt làm đại diện Chúa để chăm sóc nuôi dưỡng ta.
+ Phải vâng lời cha mẹ vì cha mẹ giàu kinh nghiệm, luôn thương yêu và muốn ta nên người tốt, luôn lo lắng cho ta được mọi sự lành. Hơn nữa, đức tin soi sáng cho chúng ta biết cha mẹ thay mặt Chúa để chăm sóc, yêu thương ta.
+ Khi lớn khôn, cùng với tâm tình và thái độ vâng lời cha mẹ, lòng hiếu thảo của chúng ta phải chân thành từ trong tâm hồn, biểu lộ qua lời nói và việc làm: đi thưa về chào, nhiệt tình làm việc chia sẻ gánh nặng với các ngài, quan tâm nhắc nhở anh chị em sống ngoan, bàn bạc và lãnh ý các ngài trong mọi dự tính...
+ Khi cha mẹ già yếu, đau ốm, chúng ta tận tình chăm sóc cơm nước, thuốc thang và mời linh mục đến để các ngài lo việc linh hồn như xưng tội, rước lễ theo thời điểm thích hợp.
+ Khi Chúa gọi các ngài về, cùng với tinh thần đạo hiếu của dân tộc, chúng ta phải lo liệu việc mai táng cho đúng với nghi thức dân tộc và công giáo, đừng lo lắng quá về cỗ bàn mà xao lãng việc cầu nguyện cho các ngài.
+ Hàng năm, phải nhớ ngày giỗ mà dâng kinh nguyện, xin lễ cầu hồn cùng dâng hy sinh cầu nguyện cho các ngài.
  • Lòng hiếu thảo của dân tộc và của Tin mừng còn động viên chúng ta phải luôn sống tốt làm rạng danh các ngài “con giống cha là nhà có phúc”.
b) Bổn phận đối với những người trong gia tộc:
  • Gia tộc của em gồm những ai? Gồm: Cố, ông bà, chú bác, cậu mợ, cô dì... Những người này cùng chung huyết thống nên rất gần gũi với nhau.
  • Abraham và Lót tương quan với nhau thế nào, và họ cư xử với nhau ra sao? Họ là 2 bác cháu. Bác nhường cho cháu chọn hướng đi lập nghiệp, Lót biết kính trọng bác nên tình nghĩa ngày thêm tốt đẹp.
  • Với người trong gia tộc, ta có bổn phận nào? Phải biết ơn, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ, cầu nguyện khi còn sống cũng như khi đã an nghỉ.
c) Bổn phận đối với anh chị em:
  • Điều gì xảy ra sau khi Giuse và các anh em khi gặp nhau và nhận ra nhau bên Ai cập? Họ khóc, ôm hôn rồi trò chuyện với nhau
  • Ca dao Việt Nam có câu: “Anh em như thể tay chân, anh em hòa thuận song thân vui vầy”. Anh chị em cùng chung khúc ruột, cùng chung một bầu sữa mẹ, nên phải biết yêu thương, sống hòa thuận với nhau. Em biết vâng lời, tôn kính anh chị. Anh chị biết thương yêu, chăm sóc các em nhất là khi cha mẹ đã chết, ‘quyền huynh thế phụ’.
 
 
Để kiện toàn đạo hiếu theo Tin Mừng, Hội thánh dạy ta những nghĩa vụ này:
- Một là tôn kính, biết ơn và vâng lời cha mẹ trong những điều chính đáng.
- Hai là lo cho cha mẹ khi các ngài còn sống được đầy đủ về phần xác cũng như phần hồn.
- Ba là khi cha mẹ qua đời, phải lo việc an táng, hương khói, làm các việc lành, cầu nguyện và dâng lễ cho các ngài. (110)
Ta có bổn phận tỏ lòng biết ơn, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ và cầu nguyện cho mọi người trong gia tộc còn sống cũng như qua đời. (111)
 
Anh chị em trong gia đình phải biết kính trên nhường dưới, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. (112)
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, dưới mái nhà Nadarét, Chúa đã nêu cho chúng con gương mẫu lòng hiếu thảo. Xin dạy chúng con biết sống ngoan với ông bà cha mẹ, hòa thuận với anh chị em và nhã nhặn với những người cùng sống với chúng con.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
  • “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi” (Đnl 5,16).
  • Số 109- 111.                                                                            
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo Lý  cấp II.
2. Thực hành: Câu chuyện dẫn đến thực hành:
Cuối đời Tây Hán, có ông Thái Thuận, tên chữ là Quản Trọng, mồ côi cha từ khi còn trẻ tuổi. Ông tôn kính mẹ rất là hiếu thảo. Thuở ấy trong nước có loạn Vương Màng, mùa màng không cầy cấy được nên gây cảnh đói kém thảm thương, ông Thuận đi kiếm trái dâu để thay vào các bữa ăn cho mẹ. Những trái chín đen thẫm và những trái mới chín đều được phân loại, để riêng ra từng nơi. Một tên tướng giặc là Xích My thấy thế, liền hỏi rằng: - Vì sao lại còn bày vẽ như vậy ?
- Những trái chín thẫm - Ông Thuận trả lời - để riêng cho mẹ tôi, còn những trái đỏ chua chát kia là phần tôi.
Nghe vậy, bọn giặc cảm động trước lòng chân thành của người con chí hiếu, bèn đem gạo trắng, đùi trâu tặng Thái Thuận đem về nuôi mẹ !
Thái Thuận chỉ là người ngoại giáo mà còn có tâm tình hiếu thảo cao độ như thế, huống chi chúng ta là những Kitô hữu, thấm nhuần đạo lý Chúa Giêsu, không lẽ chúng ta lại thua lòng hiếu thảo của Thái Thuận sao ? Cậy dựa vào Lời Chúa, chúng ta xin Chúa nâng đỡ ban ơn để chúng ta xứng đáng là con cái hiếu thảo đối với các bậc cha mẹ chúng ta.
Noi gương Thái Thuận, em luôn vâng lời cha mẹ và những người trên.
3. Bài làm ở nhà:
- Cắt dán chữ: “Vâng Lời”.
- Một việc làm cụ thể về việc vâng lời cha mẹ.
V. KẾT THÚC
Nhắc nhở lòng hiếu thảo đối với cha mẹ rồi hát bài cầu cho cha mẹ, hoặc kinh Sáng Danh...
 
…………………………………….
 
Bài 25: Điều răn 5
TÔN TRỌNG SỰ SỐNG
 
Lời Chúa: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,15).
Ý chính   : 1. Tôn trọng sự sống (Lv 24,17.19-22).
                   2. Tội nghịch Điều răn 5 (Mt 5,21-22).
                   3. Đời sống chung (1 Cr 1,10).
Tâm tình  : - Yêu mến, biết ơn Thiên Chúa đã ban sự sống cho ta.
                - Biết quí trọng, thương yêu mọi người ; bảo vệ quyền lợi và sự sống của con người.
Chuẩn bị: Tranh em bé.
I. ỔN ĐỊNH
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa: Lạy Chúa, hằng ngày trên thế giới có biết bao nhiêu sự sống bị mất đi do chiến tranh hận thù, có biết bao mầm sống bị đe dọa vì không được bảo vệ. Xin cho con biết tôn trọng sự sống của chính mình cũng như của anh em, vì chính Chúa đã chết để chúng con được sống và sống dồi dào.
II. EM NGHE LỜI CHÚA
A. Dẫn nhập:
Ngày 04.10.1988, ngày lịch sử của ngành Y học Việt Nam, ngày mang lại sự sống cho hai bạn Việt - Đức là cặp song sinh dính liền nhau ở phần chân và bụng. Để đạt được thành quả đó, các bác sĩ, y tá có trách nhiệm trong ca mổ đã phải trải qua nhiều suy nghĩ, công sức nghiên cứu và lo lắng. Biết bao người theo dõi ca mổ cũng hồi hộp lo lắng cho sinh mạng của hai bạn. Sau 14 tiếng đồng hồ trên bàn mổ, mũi kim cuối cùng vừa dứt, đôi mắt Đức chớp chớp mở ra, mọi người đang theo dõi tivi đều xúc động và thốt ra hai tiếng: “Sống rồi”.
Sự sống con người rất cao quí. Từ ngàn xưa, lòng tôn trọng sự sống đã trở thành điều luật của Thiên Chúa và được ghi trong sách Lêvi. Mời các em cùng lắng nghe
B. Công bố Lời Chúa:
Lời Chúa trong sách Lêvi (Lv 24,17.19-22)
“Nếu ai đánh chết bất cứ người nào, thì sẽ bị xử tử.... Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng ; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy. Ai đánh chết một con vật, thì phải đền; ai đánh chết người, sẽ bị xử tử. Các ngươi chỉ được có một pháp luật, cho ngoại kiều cũng như cho người bản xứ, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.
- Đó là Lời Chúa.
Thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Điều răn 5 dạy ta phải tôn trọng sự sống. Sự tôn trọng này phát xuất từ lòng tôn thờ Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Xin cho mỗi chúng ta luôn biết tôn trọng sự sống tự nhiên nơi than thể ta và những người khác, đồng thời cũng biết quí trọng sự sống siêu nhiên là ân huệ Chúa ban cho chúng ta.  (Mời ngồi)
 
C. Dẫn giải nội dung giáo lý
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
St 2,7
 
1Cr 36,13
 
 
 Ga 10,10
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ga 15,13
1. Tôn trọng sự sống.
  • Ai đã thông ban sự sống cho chúng ta? Chính Thiên Chúa gieo mầm sống trong vũ trụ và tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa hằng sống. “Thiên Chúa thổi sinh khí vào lỗ mũi, bỗng người trở thành một sinh linh”
  • Sự sống là một ân huệ, là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa ban cho con người.Chúng ta không ai biết mình sẽ chết lúc nào vì Thiên Chúa là chủ sự sống
  • Chúa Giêsu xuống thế làm người để để ta cảm nhận sự sống là cao quí, để biết tôn trọng, bảo vệ sự sống và được sống dồi dào hơn
a) Tôn trọng sự sống tự nhiên: Sự sống tự nhiên là sự sống thể lý. Tôn trọng sự sống tự nhiên là tôn trọng thân xác mình và tha nhân
- Đối với bản thân:
+ Ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt đều đặn, luyện tập thể dục, học hành mở mang trí tuệ..
+ Có bệnh, phải lo chữa trị. Không được hủy hoại thân thể hay tự sát...
+ Không nghiện ngập xì ke, ma túy, rượu chè say sưa.
 
 Người quá “tôn thờ” thân xác sẽ làm đảo lộn và giảm giá trị sự sống con người. Sự sống thân xác này có lúc phải nhường chỗ cho những lợi ích cao quí hơn. Khi lợi ích quốc gia, dân tộc đòi hỏi, con người phải biết hy sinh mạng sống để bảo vệ, xây dựng công ích.
  • Đối với người khác:
+ Tôn trọng sự sống của người khác ngay từ khi hình thành trong lòng mẹ.
+ Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho nhau, chia cơm sẻ áo cho những ai đói nghèo, cô đơn, hiến máu để cứu sống người khác.
+ Không ẩu đả, đánh đập, giận hờn, ghen ghét, oán thù.
+ Không đầu độc ai.
b) Tôn trọng sự sống siêu nhiên:
  • Sự sống siêu nhiên là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa thông ban cho ta để ta được nên giống Chúa Kitô, nên con hiếu thảo và đáng được hưởng gia nghiệp với Người trên trời.
  • Sự sống siêu nhiên thể hiện qua những điều cao quí thuộc về tinh thần. Do đó, chúng ta có trách nhiệm phát triển và sống xứng đáng nhân phẩm, không buông xuôi, đam mê, thoái hóa.
  • Khi cần thiết, người Kitô hữu biết hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin tôn giáo và cho giá trị siêu nhiên như các thánh tử đạo, như Chúa Kitô, dám chết để chúng ta được sống: “Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu”.
 
 
 
Điều răn thứ năm dạy ta qúy trọng sự sống tự nhiên và siêu nhiên của mình cũng như của người khác, và do đó, cấm mọi hình thức xâm phạm đến sự sống con người. (113)
 
 
Mt 5, 21-25
 
 
 
 
 
 
 
Lc 16, 19-28
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Mt 5,21-22.38-48
2. Tội nghịch Điều răn 5.
  • Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu kiện toàn giáo huấn nào của Cựu ước? “Chớ giết người”
  • Giới luật từ ngàn xưa này buộc mọi người phải tôn trọng sự sống của mình và của mọi người từ khi hình thành trong lòng mẹ cho đến khi qua đời. Vì thế, những ai cố ý giết người cách trực tiếp hay gián tiếp đều là tội sát nhân.
+ Giết người trực tiếp là dùng khí giới hoặc thuốc độc hoặc cố ý làm bị thương hoặc làm chết người: Cắt, rạch, đâm, chém, bắn, bỏ thuốc độc.v.v....
+ Gián tiếp: biết người khác bị mưu giết mà làm ngơ. Thấy người khác bị tai nạn, bị đói và mình có thể cứu giúp nhưng lại không giúp như người phú hộ đối xử với Lazarô
  • Khi thực hiện hoặc đồng ý làm cho người khác chết êm dịu, chẳng hạn cho bệnh nhân uống hoặc chích thuốc mê, thuốc ngủ quá liều lượng khiến bệnh nhân chết; Tự sát, loại bỏ một phần cơ thể như chặt chân, chặt tay... hoặc loại bỏ sự sống mình như uống thuốc độc, thắt cổ, nhảy xuống sông tự tử v.v... cũng là giết người
  • Chúng ta còn phạm tội nghịch điều răn 5 khi phá hoại hoặc gây nguy hiểm cho sức khoẻ của mình và của người khác. Thí dụ: sống vô điều độ, phí phạm sức khỏe vào những việc bất chính, khi hăng say thì làm chết bỏ, khi chán nản thì buông xuôi, lười biếng v.v...
  • Chúa Giêsu còn kiện toàn điều răn 5 bằng cách cấm những thái độ giận hờn, mắng chửi, oán ghét, trả thù... Người dạy các môn đệ giơ má trái cho kẻ đã vả má phải, trao cả áo ngoài cho kẻ kiện tụng đòi áo trong, đi luôn 2 dặm cho kẻ bắt đi 1 dặm, lấy ơn đền oán, không trả thù.
 
 
 
Những tội nào nghịch với điều răn thứ năm là:
- Một là cố sát, nghĩa là cố ý giết người cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
- Hai là làm chết êm dịu,
- Ba là tự sát,
- Bốn là phá hoại hoặc gây nguy hiểm cho sức khỏe của mình và của người khác (114)
 
 
 
 
 
 
1 Cr 1,10
3. Đời sống chung.
  • Ai trong chúng ta cũng đều sống chung với người khác: còn nhỏ, ta sống với cha mẹ, anh chị em; lớn lên sống chung với bạn học, bạn chòm xóm; khi trưởng thành sống chung với bạn, đồng nghiệp... con người có đời sống xã hội, đời sống chung là môi trường sống của con người.
  • Khi đời sống chung của cộng đoàn Côrintô có nguy cơ chia rẽ, thánh Phaolô đã làm gì? Thánh nhân nhắc lại giáo huấn của Chúa Kitô và khuyên họ một lòng một ý với nhau
  • Để đời sống chung được tốt đẹp, chúng ta cần sống thế nào?
  • Bỏ tính ích kỷ, nóng giận, trả thù, gây bè phái, chia rẽ...
  • Biết nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, sống hòa thuận một lòng một ý với nhau.
  • Muốn vậy, chúng ta phải luyện tập sự dịu hiền, biết quan tâm đến người khác: thấy ai bất hòa với nhau, hãy mau chóng động viên hòa giải, tha thứ, loại trừ sự giận hờn, thù oán, chửi nhau, đánh nhau...
  • Một thái độ vừa tự nhiên vừa đức tin trong đời sống chung là trước bất cứ việc nào, không vội vàng, hấp tấp phản ứng, nhưng biết bình tĩnh, dành giây lát để suy nghĩ, cầu nguyện rồi mới nói, mới hành động. Thái độ bình tĩnh “uốn lưỡi 7 lần trước khi nói” sẽ giúp chúng ta xây dựng đời sống chung tốt đẹp.
  • Các em thân mến, Thiên Chúa là chủ sự sống, và sự sống là ân huệ cao quí Thiên Chúa ban cho nhân loại. Rồi đây, khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, ta sẽ được Chúa Thánh Thần ban cho mọi ơn cần thiết để giúp ta biết sống xứng đáng phẩm giá loài người và làm con Chúa.
 
 
 
Để giúp cuộc sống chung tốt đẹp, mỗi người cần phải bỏ tính ích kỷ, nóng giận, trả thù. Cần luyện tập sự dịu hiền và biết quan tâm đến người khác, đồng thời phải cố gắng hết sức để loại trừ chiến tranh và xây dựng hòa bình đích thực. (115)
 
 
D. Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là chủ sự sống. Chính Chúa thông ban sự sống cho muôn loài. Xin Chúa dạy chúng con biết tôn trọng sự sống nơi bản thân và nơi người khác vì đó là ý muốn và lệnh truyền của Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
  • “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,15).
  • Số 113 – 115
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA
1. Sinh hoạt: Hát + cử điệu bài “Cuộc đời quanh ta …” trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo Lý  cấp II.
2. Thực hành: Em luôn biết tha thứ chứ không giận hờn, đánh nhau với bạn hay la mắng người khác.
3. Bài làm ở nhà:
Em giữ vệ sinh thân thể, không nói tục, chửi thề và tự quét dọn nhà cửa sạch sẽ
IV.KẾT THÚC 

…………………………………….
 
Bài 26: Điều răn 6+9:  SỐNG TRONG SẠCH
 
Lời Chúa: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu thì toàn thân sẽ tối”   (Mt 6,22)
Ý chính   : 1. Sống trong sạch (Mt 5,27-28).
                         2. Cách thế giúp sống trong sạch (1 Tm 4,12-13).
Tâm tình  :  Ước ao sống trong sạch để được xem thấy Chúa.
Chuẩn bị: Tranh phóng lớn của thánh Đaminh Saviô.
I. ỔN ĐỊNH
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa: Chúa Giêsu đã hứa cho những ai có tâm hồn trong sạch được nhìn thấy Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta sống đơn sơ trong sạch, biết tránh cả những lỗi lầm nho nhỏ để luôn xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa hằng sống.
II. EM NGHE LỜI CHÚA
A. Dẫn nhập:
Một lần nọ trong giờ chơi, đang đi giữa sân trường, Đaminh Saviô nghe một đám bạn trong lớp gọi: “Saviô, Saviô”. Saviô vội vã đi tới, một người bạn nói: “Này Saviô, cậu xem nè!”. Vừa thấy bức hình, Saviô liền trả lời: “Không, tôi không muốn nhìn những bức ảnh xấu xa, bậy bạ. Tôi muốn giữ mắt tôi trong sạch, để sau này lên thiên đàng, tôi được nhìn ngắm Chúa Giêsu”. Nói xong, Saviô mạnh mẽ cầm lấy tấm hình và xé nát ra.
Các em thân mến! Saviô đã can đảm chiến thắng cám dỗ, tránh những hình ảnh xấu xa, để giữ con mắt tâm hồn luôn trong sạch, xứng đáng được nhìn thấy Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã dạy - Mời các em cùng đọc Mt 5,27-28 (Mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa: Mt 5,27-28  -   Thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Con người không chỉ có sự sống thể xác nhưng còn có tâm hồn. Vì thế, tôn trọng sự sống cũng có nghĩa là tôn trọng sự trong sạch của thể xác và tâm hồn. Chúa Kitô đã chúc phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch vì sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Xin Chúa ban cho con lòng yêu mến để con chiến thắng cám dỗ và giữ tâm hồn con luôn trong sạch. (Mời ngồi)
 
C. Dẫn giải nội dung giáo lý
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
 
St 1,26-27
 
St 3,7-9
 
Mt 18,8-9
 
 
 
 
 
1 Cr 6, 15.18
 
Mt 5,8
1. Sống trong sạch:
  • Thiên Chúa ban cho con người những đặc ân nào? Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Người và cho con người được tham dự vào đời sống thánh thiện
  • Tội lỗi đã làm hoen ố hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Từ đó, con người lấy lá che thân, lẩn trốn Thiên Chúa và tâm hồn hướng về điều xấu.
  • Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta phải có thái độ dứt khoát với tội thế nào? Thà chột mắt, cụt tay, cụt chân hơn là có tất cả mà phạm tội để phải sa hỏa ngục.
  • Tại sao ta phải giữ sự trong sạch?
  • Chúa Giêsu nhắc lại luật xưa: không được sống dâm ô, ngoại tình.
  • Mọi tội khác chỉ là những tội bên ngoài, nhưng tội dâm ô, trong suy nghĩ, ước muốn, nói năng hay hành động, đều phạm đến thân xác và tâm hồn người Kitô hữu là thân thể của Chúa Kitô và là Đền thờ Chúa Thánh Thần.
  • Chúa Kitô đã chúc phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch vì sẽ được nhìn xem Thiên Chúa
Điều răn thứ chín dạy ta phải sống trong sạch từ trong tư tưởng và chống lại những ham muốn xác thịt nghịch đức trong sạch. (116)
Phải giữ sự trong sạch trong tâm hồn vì tư tưởng và lòng trí trong sạch giúp ta dễ dàng nhìn mọi sự vật ở đời này theo tinh thần của Thiên Chúa, đồng thời là điều kiện giúp ta chiêm ngắm Thiên Chúa mai sau. (117)
 
 
 
 
Tm 4,12-13
2. Cách thế giúp sống trong sạch:
  • Thái độ mạnh mẽ, dứt khoát của Đaminh Saviô, cuả Maria Goretty cách thế giúp sống trong sạch.
  • Thánh Phaolô dạy Timôthê sống thế nào? “Hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch. Trong khi chờ tôi đến, hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp, chuyên cần khuyên nhủ và dạy dỗ”.
  • Muốn sống trong sạch, chúng ta phải làm gì?
  • Chuyên chăm cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và trông cậy vào ơn Chúa.
  • Sáng suốt làm chủ ngũ quan và trí tưởng tượng.
  • Sống đoan trang trong ăn mặc, nói năng, cư xử với người khác và xa lánh dịp tội.
  • Năng đọc Lời Chúa và sách báo lành mạnh.
  • Sống tiết độ; giữ vệ sinh thân xác; tập thể dục; ăn, ngủ, nghỉ, giải trí đúng mức
  • Khi những ý tưởng, hình ảnh dâm ô xuất hiện mà ta cực lực chống lại, xua trừ để chiến đấu, chiến thắng và giữ được tâm hồn trong sạch.
  • Không xem phim ảnh xấu, đọc sách báo xấu hoặc cố tình muốn thực hiện hành động dâm ô.
Thực hiện những điều trên, em sẽ sống than tình với Chúa và Người sẽ giữ gìn tâm hồn em trong sáng. Em hãy là bông hoa nhỏ giữa vườn,hãy là bông sen trong đầm lầy vẫn giữ nét đẹp tuyệt vời và tỏa ngát hương thơm
Muốn giữ tâm hồn trong sạch ta phải
- Chuyên chăm cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và trông cậy vào ơn Chúa.
- Sáng suốt làm chủ ngũ quan và trí tưởng tượng.
- Đoan trang trong ăn mặc, nói năng, cư xử với người khác và xa lánh dịp tội.
- Năng đọc Lời Chúa và sách báo lành mạnh. (118)
Khi có những hình ảnh, tư tưởng dâm ô trong tâm trí, phải mau mắn loại bỏ và tránh dịp tội, đồng thời cầu xin Chúa và Đức Mẹ giúp ta thắng vượt cám dỗ. (119)
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã phán: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Xin giúp chúng con biết kiểm soát tâm trí và ngũ quan để chỉ nghĩ, nói năng, nhìn xem những gì đẹp lòng Chúa hầu có thể giữ tâm hồn trong sạch.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
  • “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu thì toàn thân sẽ tối” (Mt 6,22).
  • Số 116 - 119.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý  cấp II.
2. Thực hành: Em quyết tránh xa dịp tội bằng cách không xem hình ảnh xấu.
3. Bài làm ở nhà: Tìm đọc một đoạn sách tốt và ghi tóm tắt đoạn sách đó vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC
Đáp lại lời mời gọi của Chúa trong thư thánh Phaolô: “Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1 Cr 5,7-8). Chúng ta quyết tâm chăm chú học giáo lý và sống giáo lý về đức trong sạch.
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con quả tim trong sạch (Tv 51,12).
Kinh Sáng Danh...
 
…………………………………
 
Bài 27: Điều răn 7:  GIỮ SỰ CÔNG BẰNG
 
Lời Chúa: “Ngươi không được trộm cắp...” (Xh 20,15)
Ý chính   : 1. Luật công bằng (Xh 20,1-2.15).
                   2. Tội nghịch Điều răn thứ bảy (Mt 5,15-26).
                   3. Giá trị thiên nhiên (St 1,11).
Tâm tình  : Thanh thoát về của cải.
Chuẩn bị: Tranh cân công lý (bàn cân 2 đĩa).
I. ỔN ĐỊNH
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha đã tạo dựng thế giới này cho mọi người và mỗi người đều có quyền được chia sẻ những điều tốt của cuộc sống.
Xin Cha cho chúng con luôn biết tôn trọng tài sản của người khác, không làm hại hay lấy đi những gì thuộc về người khác. Nhưng luôn biết chia sẻ cho những anh em nghèo khác để chúng con trở nên con cái Cha trên trời.
II. EM NGHE LỜI CHÚA
A. Dẫn nhập:
Trong Cựu ước có kể câu chuyện: Acáp, vua Israel muốn mua vườn nho của Nabót nhưng ông này không bán vì đó là đất tổ tiên để lại. Vợ vua Acáp cho người vu khống rằng Nabót đã nói phạm thượng đến Thiên Chúa và tuyên án tử hình cho Nabót  và chiếm lấy mảnh vườn. Ngôn sứ Êlia đã chặn nhà vua lại và nói: “Bởi vì vua nghe lời vợ làm điều bất chính, không giữ sự công bằng, đã cướp mảnh vườn của Nabót và âm mưu giết người ; nên chó sẽ liếm máu vua trên mảnh vườn này, còn vợ vua thì bị chó ăn thịt trong thành Samari”... Vua Acáp và Hoàng hậu Idabel đều bị chết thảm khốc như lời ngôn sứ tiên báo (x. 1V 21,1-24).
 Chúa đã phạt Acáp và Idabel vì họ đã xâm phạm của cải người khác. Vậy chúng ta phải có thái độ nào đối với của cải người khác? Chúng ta hãy lắng nghe  đoạn trích Xh 20,1-2.15 (Mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa:
Lời Chúa trong sách Xuất hành
“Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ... Ngươi không được trộm cắp.”
- Đó là Lời Chúa.
Sau khi nghe Lời Chúa, thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Lạy Chúa, luật yêu thương người khác đòi buộc chúng con phải tôn trọng của cải của họ. Lời Chúa dạy chúng con không được trộm cắp của ai. Xin Chúa dạy chúng con luôn biết giữ sự công bằng như lời Chúa đã mời gọi chúng con. (Mời ngồi)

C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
 
 
St 1,29
 
 
St 13,1-12
Xh 20,1-17
 
Mt 22,21
 
Mt 7,12
 
 
 
 
 
Lc 12,57-58
1. Luật công bằng.
  • Thiên Chúa đã dựng nên loài người giống hình ảnh Người và ban cho loài người quyền cai quản vũ trụ, được hưởng những điều kiện để sống xứng đáng phẩm giá con người, được “mọi thứ trên trái đất là của ăn”. Thiên Chúa cũng đã đặt luật công bằng trong lương tâm con người để họ biết tôn trọng quyền lợi chính đáng của người khác mà sống hạnh phúc với nhau trong tình yêu của Thiên Chúa
  • Ở núi Sinai, Thiên Chúa đã xác định lại điều luật đó trong Điều răn thứ 7 và thứ 10 của mười điều răn
  • Chúa Giêsu nói gì về luật công bằng? Mời các em mở sách Tin mừng
  • Ngài xác định một cách sâu sắc: “Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
  • Phải giữ đức công bằng từ trong ý muốn: “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình thì các ngươi hãy làm cho người ta trước đã”.
  • Vậy, công bằng là trả lại cho người khác những gì là của họ và đòi người khác phải trả lại cho ta những gì là của ta (GLV  diễn giải hình ảnh cái cân biểu tượng của luật công bình). Những của này bao gồm tài sản vật chất và tinh thần, tất cả những gì có được cách công chính
  • Vì thế, điều răn thứ 5 dạy ta:
  • Không do các việc làm bất chính như trộm cắp, cướp giật, chứa của gian,
  • Gìn giữ, tôn trọng tài sản chung hay riêng, không tham ô, phung phí của chung hoặc gây thiệt hại gây thiệt hại cho thanh danh người khác,...
  • Biết chia sẻ cho nhau, giúp đỡ người nghèo vì mọi tài sản là của chung
Điều răn thứ bảy dạy ta sống công bằng theo hai nghĩa:
- Một là tôn trọng của cải người khác vì mỗi người được quyền có của cải riêng để bảo đảm nhân phẩm và nhu cầu cuộc sống gọi là quyền tư hữu.
- Hai là sử dụng của cải trong tinh thần liên đới và chia sẻ với mọi người, vì tài nguyên trong vũ trụ được Thiên Chúa ban chung cho mọi người.
(120)
 
Mt 5, 25-26
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Mt 5,26
 
 
 
1Cr 6, 10
2. Tội nghịch điều răn 7.
  • Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu dạy về đức công bình thế nào? Chúng ta hãy cùng đọc Mt 5,25-26  …Chúa Giêsu dạy ta phải dàn xếp với kẻ thù và công bằng với mọi người
  • Vậy có những tội nào lỗi đức công bình?
A. Tội lấy của người khác cách bất công.
  • Trộm cướp,gian lận: Copy bài trong thi cử, lấy đồ của bạn, phá phách cây cối, ăn trộm cá, chim kiểng…
  • Cho vay ăn lời quá đáng,
  • Nhận  của  hối  lộ hoặc thâm lạm của công.
  • Đầu cơ tích trữ hoặc bắt chẹt người tiêu dùng.      
B. Tội giữ của người khác cách bất công.
  • Không trả nợ,
  • Không hoàn lại của đã mượn hay lượm được,
  • Không trả tiền công xứng đáng,
  • trốn thuế,
  • Cất trữ của gian.
  • Khi đã lỗi đức công bằng, ta phải làm gì? “phải đền trả đến hết “đồng xu cuối cùng”, nghĩa là phải hoàn trả lại những tài sản đã chiếm đoạt và bồi thường cân xứng những thiệt hại đã gây ra. Việc xưng tội sẽ không đem lại lợi ích nếu em không sám hối và hoàn trả theo đức công bằng
  • Thánh Phao lô khuyên nhủ giáo đoàn Côrintô thế nào? Những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới… sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp
Tội lấy của người khác cách bất công là  tội:
- Một là trộm cướp,
- Hai là gian lận,
- Ba là cho vay ăn lời quá đáng,
- Bốn là nhận của hối lộ hoặc thâm lạm của công.
- Năm là đầu cơ tích trữ hoặc bắt chẹt người tiêu dùng. (121)
Kẻ đã lỗi đức công bình thì phải hoàn trả lại những tài sản đã chiếm đoạt, và bồi thường cân xứng những thiệt hại đã gây ra. (123)
 
 
St 1,11
3. Giá trị thiên nhiên.
  • Cây cối, muông chim, cầm thú, tài nguyên thiên nhiên đều do Thiên Chúa tạo thành. Đây là tài sản chung của nhân loại, không ai có quyền chiếm đoạt, sử dụng theo lòng tham lam và ích kỷ của mình, không làm ồ ào, ô nhiễm môi trường sống
  • Thú vật là những thụ tạo được Chúa ân cần chăm sóc. Hành hạ hay giết hại chúng là trái với phẩm giá con người.Ta hãy thương chúng như thánh Phanxico Assisi nhưng cũng đừng dành số tiền quá đáng để lo cho súc vật mà bỏ quên sự khốn cùng của con người
  • Lòng tôn thờ Thiên Chúa là chủ muôn loài và ý thức liên đới, đòi buộc mỗi người phải biết tôn trọng môi sinh, sử dụng thú vật, cỏ cây và vật chất vì ích lợi toàn diện của mọi người.
Điều răn thứ bảy còn dạy ta tôn trọng môi sinh, sử dụng đúng đắn các thú vật, cỏ cây và vật chất vô tri giác vì ích lợi toàn diện của mọi người. (124)
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa, chính Chúa đã ban phát mọi sự cho chúng con. Xin giúp chúng con biết tôn trọng và sử dụng của cải đúng như ý Chúa muốn. Xin giúp chúng con biết tôn trọng của cải của người khác, không tham lam hoặc làm thiệt hại tài sản của ai.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
  • “Ngươi không được trộm cắp...” (Xh 20,15).
  • Số 120- 124.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý  cấp II.
2. Thực hành: Em quyết tâm không lấy hoặc làm hại đồ vật, tài sản của ai.
3. Bài làm ở nhà: Em tự vấn và kiểm tra xem còn giữ cái gì của ai, sớm hoàn trả và ghi vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC
 
……………………………………………
 
Bài 28:  Điều răn 8:  TÔN TRỌNG SỰ THẬT
 
Lời Chúa: “Một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25).
Ý chính   :  1. Tôn trọng sự thật (Ep 4,22-25).
                   2. Tội nghịch Điều răn thứ tám (Cv 5,1-10).
Tâm tình  : Yêu mến và tôn trọng sự thật.
Chuẩn bị: - Tranh Chúa Giêsu trước tòa án Philatô.
                   - Tranh các thánh Tử đạo.
I. ỔN ĐỊNH
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa: Chúa Giêsu mời gọi chúng ta « Tôn trọng sự thật”. Khi nói dối, nói xấu, chúng ta làm hại chính chúng ta và người khác. Xin Chúa giúp chúng ta biết thực hành Lời Chúa: “Có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
II. EM NGHE LỜI CHÚA
A. Dẫn nhập:
Ngày xưa, có ông vua đã già nhưng không có con. Ông thông báo: “Mọi em thiếu nhi đều được trao một ít hạt giống hoa, em nào gieo trồng và chăm sóc được những cây hoa tốt nhất, sẽ được nhận làm con, có quyền nối ngôi vua”. Trẻ em khắp nước ùn ùn kéo đến nhận hạt giống mang về nhà trồng. Một em bé nghèo khổ tên là Nia cũng đến nhận hạt giống vua trao. Em bỏ ra nhiều công chăm sóc, vun tưới cho hạt giống. Thời gian trôi qua, các em mang chậu hoa kiểng xinh tươi của mình đến. Nia cũng đến, trên tay em chỉ là một chậu đất không có một cây nào mọc lên cả. Nhà vua hỏi: “Hoa của con đâu?” Nia trả lời trong khi hai dòng nước mắt lăn dài trên má: “Thưa Đức vua, con ra công xới đất, gieo hạt giống do chính Ngài đưa, và tưới nước mỗi ngày, nhưng hạt vẫn không chịu nảy mầm”. Rồi em xòe hai bàn tay đã chai cứng cho vua coi. Nhà vua ôm lấy Nia và nói: “Đây chính là người mà ta dày công tìm kiếm”. Rồi nhà vua hướng về đám đông đang tụ họp và nói: “Tất cả hạt giống các ngươi nhận được đều đã bị luộc chín cả, làm sao có thể lên bông được! Chỉ có Nia là thành thật. Nia xứng đáng được ta truyền ngôi cho”.
Các em thân mến, lòng thành thật là một trong những điều quí nhất của con người, nó quí trọng hơn cả ngôi vua. Thánh Phaolô tông đồ đã củng cố nhận định này trong thư gửi tín hữu Ephêsô. Mời các em cùng đọc ..
B. Công bố Lời Chúa: Ep 4,22-25    -   thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Lạy Chúa, tôn trọng sự thật là yêu cầu chính đáng và cần thiết cho cuộc sống chung. Xin cho chúng con luôn yêu thương mọi người và sống tôn trọng sự thật như Chúa đã dạy chúng con.  (Mời ngồi)
 
C. Dẫn giải nội dung giáo lý
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
 
Ga 17,3
 
 
Ga 14,16-17
 
Ga 17,17.19
 
Ga 16,12-13
 
Ga 8,31b-32
 Rm 8,14
 
 
 
 
Mt 5,33-37
 
Ga 18,37
 
Ga 15,26-27
 St 1,26-27
1. Tôn trọng sự thật
a) Vì sao ta cần sống thành thật?
  • Ba Ngôi Thiên Chúa là Đấng chân thật và là chính sự thật hứa ban ơn cứu độ cho những ai nhận biết Người: “Sự sống đời đời là họ nhận biết Chúa, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Đức Giêsu Kitô”.
  • Chúa Giêsu “là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”
  • Chúa Giêsu muốn thánh hiến chúng ta bằng sự thật: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ, Lời Cha là sự thật”, và “nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
  • Chúa Thánh Thần là Thần Khí sự thật “ở với anh em luôn mãi”. “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”.
  • Sự thật làm tăng giá trị con người: Người sống trong sự thật là người đã được giải phóng khỏi ách nô lệ của ma quỉ. Họ trở thành con Thiên Chúa, “phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” và được hạnh phúc
  • Sự thành thật rất cần cho đời sống chung: con người luôn sống chung với người khác. Cuộc sống chung này chỉ bền chặt và tốt đẹp khi mọi người tín nhiệm nhau, tạo niềm tin cho nhau. Sự gian dối gây ra nghi kỵ, dè bỉu nhau, phá hủy sự hợp nhất của cộng đoàn.
 
b) Phải làm gì để tôn trọng sự thật?
  • Sống thành thực trong tư tưởng, lời nói, việc làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và thực hành lời Chúa Giêsu dạy: “Hễ có thì phải nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỉ”
  • Can đảm làm chứng cho sự thật. Trong những tình huống phải chứng tỏ đức tin của mình, người Kitô hữu phải can đảm tuyên xưng đức tin, không úp mở, tránh né. Các Thánh Tử đạo đã anh dũng chết cho chân lý, các ngài là chứng nhân tuyệt hảo biểu lộ tâm hồn yêu mến và tôn trọng sự thật
  • Tôn trọng danh dự mọi người: con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, có nhân phẩm. Nhờ Bí tích Rửa tội và ân huệ Chúa Thánh Thần, thân xác ta trở nên Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ được sống lại,  nên càng phải được tôn trọng hơn.
Điều răn thứ tám dạy ta sống thành thật, làm chứng cho sự thật và tôn trọng danh dự mọi người. (125)
 
Ta cần sống thành thật vì ba lẽ này:
- Một là vì Thiên Chúa là Đấng Chân thật và là chính sự thật,
- Hai là vì sự thành thật làm tăng giá trị con người,
 
- Ba là vì sự thành thật rất cần cho đời sống chung. (126)
 
 
 
Cv 5,1-10
2. Những tội nghịch Điều răn thứ 8.
  • Sách Công vụ kể lại chuyện ông bà Kha-na-ni-a và Xa-phi-ra bán một thửa đất.Họ giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các Tông Đồ. Ông Phê rô hỏi: “anh chị bán thửa đất được bấy nhiêu, phải không? " Bà Xa-phi-ra đáp: "Vâng, được bấy nhiêu thôi." Cả hai ông bà này đã lăn ra chết vì họ lừa dối Thánh Thần.
  • Câu chuyện này nhắc nhở chúng ta phải sống thế nào? Không gian lận, dối trá
  • Nói dối kèm theo thề thốt thì là bội thề hay thề gian. Điều này cũng lỗi điều răn thứ 8
  • Trong những trường hợp cần phải làm chứng công khai trước những người có quyền xét xử, sự thành thật lại càng là yếu tố quyết định để tìm ra sự thât. Thế nên, làm chứng gian thì tội sẽ trở thành nặng hơn.
  • Tội nghịch cùng điều răn thứ tám là những tội này:
  • Một là làm chứng gian dối và bội thề,
  • Hai là làm mất thanh danh người khác như: nói  hành, nói xấu, và vu khống,  cáo gian.
  • Ba là nói dối.
  • Bốn là tán dương người khác khi họ làm điều xấu.
  • Năm là không làm chứng cho sự thật.
Những tội nghịch với điều răn thứ tám:
- Một là làm chứng gian dối và bội thề,
- Hai là làm mất thanh danh người khác như: nói  hành, nói xấu, vu khống, cáo gian.
- Ba là nói dối.
- Bốn là tán dương người khác khi họ làm điều xấu.
- Năm là không làm chứng cho sự thật. (127)
Làm chứng gian dối là nói sai sự thật về người hay việc nào đó cách công khai trước những người có thẩm quyền xét xử. Khi lời nói dối kèm theo lời thề thì gọi là bội thề hay thề gian. (128)
 
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý đến dạy dỗ chúng con những điều chân thật. Xin cho chúng con biết luôn sống thành thật trong tư tưởng, lời nói và việc làm, để tôn vinh Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
  • “Một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25)
  • Số 125- 128
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý  cấp II.
2. Thực hành: Câu chuyện dẫn đến thực hành:
Ông Gandhi, một vĩ nhân, lúc còn nhỏ, có lần trốn học. Về nhà sợ bị quở trách, ông nói dối mẹ. Bà mẹ biết, bèn nhất định không ăn cơm. Bà nói: “Mẹ thà thấy con chết còn hơn là con nói dối, vì nói dối là tỏ ra mình khiếp nhược. Có con như thế là một cái nhục cho mẹ. Mẹ không muốn sống nữa”. Gandhi bèn đứng lên, lấy một cục than lửa để trên bàn tay và nói: “Con thề với mẹ , từ rày về sau, con không bao giờ nói dối nữa”. Về sau, Gandhi không bao giờ thất hứa hay nói dối ai điều gì. Ông thường bảo: “Cái vết trên bàn tay tôi đây là hình bóng mẹ tôi, không bao giờ rời bỏ tôi. Đây là vị thiên thần phù hộ tôi mãi ở trong vòng sự thật và danh dự”.
Vậy em quyết tâm suy nghĩ và nói đúng sự thật.
3. Bài làm ở nhà: 
Viết vào tập bài làm lời nói của mẹ Gandhi “Mẹ thà thấy con chết còn hơn là con nói dối”.
V. KẾT THÚC:
 
……………………………………
 
Bài 29: Điều răn X : KHÔNG THAM LAM CỦA NGƯỜI
 
Lời Chúa:  “Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Đnl 5,21).
Ý chính   : 1. Không tham lam của người (Đnl 5,6.21).
                   2. Khắc phục những ham muốn bất chính (Mc 10,42-45).
Tâm tình  : Yêu mến, và mong ước sự lành cho người khác.
I. ỔN ĐỊNH
1. Đón tiếp:
2. Thánh hóa:
Chính lòng tham lam chiếm đoạt đã làm bùng nổ những cuộc chiến tranh trên thế giới, và gây nên những cuộc ẩu đả, giận hờn trong đời sống thường ngày của chúng ta.
Chúng ta hãy khiêm tốn cầu xin Thánh Thần của Chúa Giêsu, luôn khơi động trong chúng ta tinh thần ham muốn học hiểu giáo lý của Chúa, để chúng ta biết tiết chế những thèm khát bất chính hầu được hưởng sự an bình trong tâm hồn.
3. Dẫn vào bài mới
II. EM NGHE LỜI CHÚA
A. Dẫn nhập:
Sách Samuel có kể chuyện: Trong thành kia có một người giàu, một người nghèo. Người giàu có nhiều chiên, dê, bò, súc vật. Còn người nghèo chỉ có một con chiên nhỏ. Ông nuôi nấng nó không khác gì một đứa con của ông. Có khách đến thăm ông nhà giàu, nhưng ông này tiếc của không bắt chiên hay bò của mình mà lại bắt con chiên của người nghèo làm thịt đãi khách (2 Sm 12,1-6).
Các em thân mến,
Ông nhà giàu đó có hàng trăm hàng ngàn con chiên, dê, bò... Vậy mà vẫn cứ tham, ích kỷ, ức hiếp người nghèo. Vua Đa vit khi Samuel nghe kể câu chuyện này đã nổi giận đòi trừng phạt ông nhà giàu ấy. Còn sách Đệ Nhị Luật dạy ta thế nào? Mời các em cùng nghe và sống Lời Chúa dạy - Mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa:
Lời Chúa trong sách Đệ nhị luật (Đnl 5,6.21)
“Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập khỏi cảnh nô lệ... Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”.
- Đó là Lời Chúa.   -        thinh lặng giây lát rồi gợi ý:
Lạy Chúa, sự tham, ích kỷ, độc ác, tham ô, ức hiếp người nghèo vẫn thường xảy ra trong xã hội loài người và có thể có ở nơi chúng con. Xin cho chúng con hiểu rằng:  Tình yêu thương đối với người khác phải là sự chân thật, để từ đó chúng con biết vui cùng người vui, khóc cùng người khóc và khắc phục những ham muốn bất chính để tâm hồn chúng con luôn được bình an. (Mời ngồi)
 
C. Dẫn giải nội dung giáo lý:
 LỜI CHÚA DIỄN GIẢI NỘI DUNG GL
 
1. Không tham lam của người
  • Khi đói ta thèm ăn, khi khát ta thèm uống, khi thức khuya ta buồn ngủ, khi mệt mỏi ta mong được nghỉ ngơi v.v... Đó là những ham muốn tự nhiên giúp bảo vệ sự sống của con người. Ham muốn là khởi điểm để phấn đấu vươn lên hầu đạt tới những thành công. Có muốn trở thành kỹ sư, bác sĩ, muốn giúp ích cho xã hội thì em mới ham học và học giỏi.
  • Con người thường bị cám dỗ “được voi đòi tiên” mà câu chuyện “ăn khế trả vàng” là 1 ví dụ. Người anh khi được con chim quí cõng đi lấy vàng, anh có may túi 3 gang như con chim dặn không? Không, anh ta may túi 9 gang và hậu quả là anh chết chìm dưới biển vì túi vàng quá nặng. Xã hội hôm nay cũng có nhiều người giàu nhưng vẫn tìm cách cho vay nặng lãi, xiết nợ, tham ô….
  • Thiên Chúa đã nhắc nhở con người: không được ham muốn vợ người ta, không được ước ao nhà cửa, đất đai, gia súc, vật nuôi và gia tài của người khác. Vì không tự chế được lòng mình nên sinh ra tham lam và ghen tị.
a) Tham lam:
  • Tham lam là ham mê của cải và thế lực do của cải đem lại “có tiền mua tiên cũng được”; từ đó ta có thể làm hại người khác.
  • Tính tham lam làm cho con người trở thành “trùm sò”, ích kỷ, co cụm vào mình, chai lì trước những cảnh huống thương tâm của  người chung quanh. Tính tham lam còn làm cho con người trở thành nô lệ cho vật chất, quên mất sĩ diện và có thể làm điều gian ác, lừa thầy phản bạn như Giuđa đã bán Chúa Giêsu. Tính tham lam khiến lòng ta ra mù quáng, rối loạn, phán đoán lệch lạc, phai lạt tình yêu và dễ sa ngã phạm tội...
  • Trong cuộc sống, người nào qúa ham mê vật chất, hưởng thụ, tiện nghi... thì lòng tham càng lớn mạnh. Vậy, ta phải quyết tâm loại trừ, xa tránh sự tham lam.
b) Ghen tị:
  • Ghen tị là thái độ buồn phiền, tức bực khi thấy người khác có tiền, có của cải, có phương tiện, có uy tín... nên ước ao chiếm đoạt, mưu tính hạ nhục, gây thiệt hại cho người đó.
  • Ghen tị với em là Abel, Cain đã làm gì? Giết em
  • Việc Cain giết em dẫn đến hậu quả nào ? Ông bị dằn vặt lương tâm, đất đai trổ sinh gai góc, ông lang thang khắp mặt đất…
  • Tính ghen tị có xuất hiện nơi các em không ? Có! giữa anh em trong cùng nhà, các bạn cùng lớp ….
  • Em phải làm gì để tránh những tật xấu trên? Sống yêu thương, mong điều tốt đẹp cho người khác, quảng đại giúp người nghèo khó …
Điều răn thứ mười dạy ta giữ lòng khỏi ham mê của cải quá đáng, để không tham lam muốn lấy của người khác và không ghen tỵ với người khác. (129)
 
 
Sự tham lam khiến lòng ta ra mù tối, rối loạn, phán đoán lệch lạc, phai lạt tình yêu mến và dễ sa ngã phạm tội. (130)
 
 
Ghen tị là thái độ buồn phiền, tức bực khi thấy người khácgiàu hơn mình và muốn chiếm đoạt. Ghen tị là một mối tội đầu
 
 
Mc 10,35-41
 
 
 
 
 
Mc 10,42-45
 
 
 
 
 
 
 
Lc 14,33
 
 
Rm 12,15
Mt 5,3
2. Khắc phục những ham muốn bất chính
  • Khi nghe Chúa Giêsu loan báo Người sẽ sống lại, 2 ông Giacôbê và Gioan xin Chúa điều gì? Các ông xin được ngồi bên phải, bên trái Chúa Giêsu khi Thầy được vinh quang
  • Mười môn đệ kia tỏ thái độ nào? Họ đâm ra tức tối với ông Giacôbê và Gioan
  • 2 môn đệ tham lam quyền hành, 10 ông khác tức tối, nghĩa là  sự tham lam của cải, quyền bính... vẫn có trong lòng các ông và cả mỗi người chúng ta.
  • Chúa Giêsu dạy các môn đệ xưa và chúng ta hôm nay cách thế nào để khắc phục những ham muốn bất chính. Mời các em đọc Mc 10,43-44: “Giữa anh em thì không phải như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Như vậy, Chúa dạy ta sống tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và phục vụ
  • Ta luyện tập sống tinh thần khiêm tốn, khó nghèo thế nào?
  • Giữ lòng siêu thoát đối với của cải, và sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho những người túng thiếu hơn.
  • Đặt Chúa trên hết mọi sự, cậy trông phó thác nơi Người.
  • Sống an vui mỗi ngày, biết sống vui với kẻ vui, khóc cùng người khóc
  • Không ham mê của cải trần gian để chiếm đoạt phúc thật Chúa dành cho những người nghèo khó
  • Điều chỉnh những ham muốn cho đúng đắn, cảnh giác trước sự quyến rũ và thế lực do tiền của lôi kéo.
  • Luôn cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn những tư tưởng và hành động của ta, vì chính Chúa Thánh Thần mới có thể giúp ta khám phá những mặt tốt đẹp của cuộc đời. Chính Chúa Thánh Thần giúp ta biết cầu xin sự lành cho người khác và biết vui mừng khi người khác được may lành.
 
Muốn chống lại tính ghen tỵ và những ham muốn bất chính, ta cần biết cầu xin sự lành cho người khác và biết vui mừng khi họ được may lành. (131)
 
 
 
 
Để được vào Nước Trời, con người phải biết sống khó nghèo  vì « phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó »
 
D. Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, mặc dầu Chúa giầu sang vô cùng, nhưng Chúa đã chấp nhận cuộc sống nghèo khó để nêu gương thanh bần cho chúng con. Xin giúp chúng con biết dẹp bỏ tính tham lam, ích kỷ, và biết vui mừng khi người khác được những điều may mắn.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
  • “Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Đnl 5,21).
  • Số 129- 131.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA
1. Sinh hoạt: Tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành: Câu chuyện dẫn đến thực hành:
Cha xứ Don Cafassô đỡ đầu và nuôi Gioan Bosco ăn học. Khi bị bệnh nặng, Cha Don Cafassô gọi Gioan Bosco đến bên giường và nói: “Cha thương con và quyết lòng đưa con đến bàn thánh, nhưng nay thánh ý Chúa lại khác. Vậy chìa khóa đây, Cha trối lại tất cả gia tài của Cha cho con. Có gì con hãy bán hết mà ăn học để đạt tới mục đích Cha con ta mong ước”. Nói đoạn, cha tắt thở.
Mai táng Cha xứ Don Cafassô xong, Gioan Bosco thành thật thuật lại cơn bệnh cũng như lời trăn trối của Cha xứ rồi Gioan Bosco rút chìa khóa ở túi áo, kính cẩn trao cho Cha bề trên và nói: “Thưa Cha bề trên, con xin trao chìa khóa này cho Cha, con không nhận gì cả. Xin Cha bề trên dành tài sản này cho người nghèo. Trên thiên đàng Cha xứ quá cố của con cầu nguyện cho con là đủ rồi”.
Vậy em bắt chước Gioan Bosco: không tham lam của cải, nhưng dùng của cải cách quảng đại, giúp đỡ các bạn nghèo (trích ĐHV  tr. 414).
Thực hành: Em sẵn sàng giúp đỡ các bạn nghèo.
3. Bài làm ở nhà:
Em chia sẻ một đồ vật gì của em cho một người bạn nghèo và ghi việc đó vào vở bài tập.
V. KẾT THÚC.
Noi gương Chúa sống nghèo, chết nghèo, em không vi phạm của cải, danh dự người khác. Xin Chúa giúp chúng ta thực hiện công bình - bác ái với mọi người và biết mong ước sự lành cho người khác.
Kinh Sáng Danh...
 
…………………………………………….
Nhóm Huấn giáo Hội Dòng Đa Minh Tam Hiệp  
Thông tin khác:
Hội Dòng Mến Thánh Giá Hưng Hoá Chúc Mừng Năm Mới
FANPAGE FACEBOOK VÀ YOUTUBE
Thiết kế web - Thiet ke website: OnIP™ - www.onip.vn - mCMS.
Origin site: www.mtghunghoa.org!
log