Thứ sáu, 26/04/2024

Tương Quan Giữa Thân Xác Và Sống Khiết Tịnh (phần 4)…

Cập nhật lúc 09:04 09/11/2020

Một cái nhìn trên phương diện Y khoa và Thần Học Luân lý Sự cần thiết của rèn luyện thân thể, nhân đức và đời sống tinh thần, thiêng liêng.

Có một phương pháp duy nhất để giữ gìn trinh khiết là: đồng hóa mình với Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thánh Giá, tức là khắc chế cá nhân trong ngoài đầy đủ(Thánh Francis of Sales)

Khiết tịnh tu sĩ đòi hỏi một tiến trình đào tạo lâu dài và lao nhọc. Quá trình này không chỉ bao gồm việc huấn luyện khách quan do nhà Dòng và các người phụ trách đảm nhiệm, mà cơ bản, đòi hỏi sự dấn thân nghiêm túc của mỗi người, khởi phát từ ý muốn, chọn lựa của chính người đó. Chọn lựa này dựa trên xác tín của chính đương sự rằng mình được Thiên Chúa chọn sống đời khiết tịnh và tự do đáp trả bằng lời khấn. Cần thực tế nhìn trước những gì đời sống này đòi hỏi.

  1. Người tu sĩ sống triển nở và sung mãn tính nam nữ của mình

Tính dục chúng ta là một quyền lực tương quan cung cấp năng lượng cho sự sáng tạo, đáp ứng nhu cầu tha nhân, sự say mê tích cực và dấn thân. Nó cũng là một phương tiện cho sự hiện diện một cách dịu dàng đối với những ai đang đau thương cũng như là dấn thân một cách đam mê nhiệt tình để thiết lập các mối tương quan đúng đắn. Thiên Chúa ban cho chúng ta tính dục để kéo chúng ta ra khỏi chúng ta và đến với những tương quan với người khác. Trong ý nghĩa này, tính dục nối kết với tính thiêng liêng con người.

Tương quan mà chúng ta thiết lập với tính dục của chúng ta sẽ mang tất cả ý nghĩa của nó trong tác động qua lại với tất cả các yếu tố khác tạo nên cuộc sống của chúng ta. Triết lý Trung hoa khám phá sự phối hợp hài hòa giữa nam và nữ dựa trên triết lý về hợp nhất âm dương.[1] Các nhà thần học nữ quyền đã chính đáng phản biện những phân chia khác nhau giữa nam và nữ nhắm đến phân biệt đối xử nam nữ, xem nữ giới ở vị trí phụ thuộc hay thấp kém hơn nam giới. Tuy nhiên, vẫn không thể chối bỏ các đặc điểm phong phú riêng biệt của mỗi giới làm phong phú cho nhau và hòa hợp với nhau. Và, đối với nữ tu, sống tính dục của mình trước hết là lời mời gọi sống sung mãn nữ tính của mình. Là phụ nữ trưởng thành, trách nhiệm về bậc sống của mình, tự do chọn lựa sống khiết tịnh vì nước Trời, sống cộng đoàn tông đồ, và phát huy nữ tính: tinh thần lắng nghe, tôn trọng con người, tấm lòng sẵn sàng hy sinh quảng đại để nuôi dưỡng sự sống, cảm quan về sự  ân cần chăm sóc, âu yếm, tế nhị giúp thiết lập những mối tương quan sâu sắc; tính dễ tổn thương làm người nữ nhạy cảm đối với nổi khổ của tha nhân, sự hiểu biết của con tim làm người nữ tu kiên trì, trung thành, bền đỗ khi cần.

Ân sủng không thay thế tự nhiên, sự trưởng thành thiêng liêng phải đi đôi với sự trưởng thành tình cảm đầy đủ. Sự trưởng thành tình cảm nghĩa là sự phát triển và hội nhập tất cả sức mạnh và xúc cảm của nhân vị; nó bao hàm nhiều điều hơn chỉ là tính dục, nó tiêu biểu cho một thách thức đặc biệt với những hy sinh từ bỏ mà khiết tịnh liên quan đến. Quá trình trưởng thành tình cảm của mỗi tu sĩ diễn ra trong bối cảnh những mối tương quan con người trong đời sống. Nó diễn ra trong, và xuyên suốt các giai đoạn của cuộc đời, nhưng đặc biệt là vào thời điểm của khủng hoảng.

Cuộc sống độc thân không tránh khỏi những lúc cô đơn (mà thật ra, cả người lập gia đình cũng phải đối diện với những khoảnh khắc cô đơn). Đây là giây phút tuyệt vời để cầu nguyện, Hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cũng sống đời độc thân, Ngài hiểu rõ cái giá của sự độc thân.

Chúa Giêsu cho chúng ta mẫu mực của một đời sống trưởng thành tâm linh và triển nở nhân cách trong các mối tương quan. Ngài không khinh thường phụ nữ tuy sống trong một xã hội coi thường và đánh giá thấp phụ nữ. Ngài thương mến phụ nữ và không sợ hãi phụ nữ. Trong Lc 8, 1-3 : Chúa Giêsu cùng đi với các phụ nữ Maria Magđala, Gioanna, Susana. Trong Ga 4,  Chúa Giêsu chuyện trò với người phụ nữ Samari. Đoạn Ga 11,5 cho thấy Chúa Giêsu thương mến (love) cô Mácta, còn cô Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Ga 11,5 kể rằng các bà các cô đem con tới cho Chúa Giêsu chúc phúc. Chúa Giêsu không chịu nổi nước mắt của phụ nữ, như trong Lc 7, 11-13, người phụ nữ góa thành Naine khóc thương con, Chúa Giêsu chạnh lòng thương và nói bà ấy đừng khóc nữa. Đoạn Ga 20,15 kể khi thấy Magđala khóc, Chúa Giêsu Phục Sinh hỏi sao bà khóc… Chúa Giêsu mến thương nhưng không mê ai, không bị ràng buộc bởi người phụ nữ nào, kể cả Mẹ Ngài. Chúa Giêsu rất quân bình không thuộc phái khắc kỷ. Ngài coi cử chỉ người phụ nữ lấy tóc lau chân Ngài như một thái độ biết ơn. Chúa Giêsu sống bình an với sự độc thân như một chọn lựa.

Khi yêu mến thì niềm vui ngự trị tâm hồn. Người tu sĩ yêu mến quan tâm và nhạy cảm với nhu cầu, ước muốn của tha nhân. Tính hiền lành bộc lộ tình yêu rộng lớn mở rộng cho cả nhân loại, những con người đau khổ trên thế giới này.

  1. Về phương diện thể lý tâm lý:

Thần học Kinh viện đưa ra nguyên tắc: “Ân sủng giả thiết tự nhiên”, Hay ân sủng được xây dựng trên tự nhiên. Ân sủng cần để hoàn bị và sửa chữa tự nhiên, khi cần thiết.

Rèn luyện thân thể khỏe mạnh: một tinh thần khỏe mạnh trong một thân thể khỏe mạnh. Sự rèn luyện đều đặn là một thực hành để rèn ý chí. Ngoài ra, còn giúp giải tỏa những đòi hỏi về thể xác, giữ quân bình tâm sinh lý. Rèn luyện thân thể cũng chính là một nhân đức.

Các thú vui (jouissance) lành mạnh: ngày nay tâm lý hiện đại nói một cách tích cực về thú vui lành mạnh và sự nhạy cảm của giác quan. Tiếp xúc với thiên nhiên, cây cối, vũ trụ sẽ có những cảm giác êm dịu, thấy lòng thanh thản nhẹ nhàng, vượt qua những nhỏ nhen trong cuộc sống hằng ngày. Thấy Thiên Chúa bao la và tôi nhỏ bé. Đi vào bệnh viện thấy nhiều bệnh nhân đau khổ rồi thấy nỗi khổ tôi đang chịu đựng chẳng đáng là chi, và thấy rằng ngoài tình yêu Thiên Chúa, mọi sự trên thế giới này đều tương đối. Thiết lập được mối tương quan của tôi với chính tôi và với thế giới trong đó tôi hiện hữu, chính cái đó giúp tôi tạo cái nội tâm của riêng mình, cái vui sướng trong thâm tâm mình. “Có khả năng thưởng thức thú vui của cuộc sống là một điều đóng góp vào việc xây dựng cái nội tâm riêng mình vì việc đó giúp cho tôi có được một khoảng cách vững chắc đối với sự vật cần thiết cho mình để sống.”  Khi ta xây dựng được nội tâm vững chắc, sẽ có khả năng thưởng thức sự cô đơn. Sau đoạn đường dài, đến lúc nào đó, đạt được sự giải thoát bên trong, và chúng ta bắt đầu thưởng thức giây phút ở một mình, sự cô đơn lành mạnh, không trống rỗng, nhưng lấp đầy bởi ân sủng, giải thoát việc tìm kiếm sự khen chê của người khác. Đó là một ơn huệ thiêng liêng và cũng là một kinh nghiệm nhân bản quan trọng. Thế là chúng ta có khả năng sống đời sống của mình, giao tiếp một cách vô vụ lợi, yêu thương, cởi mở trong tương quan mà đồng thời thưởng thức được việc ở một mình, hạnh phúc.[2]

  1. Về phương diện tinh thần, tình cảm:

Những khổ chế cần thiết: Tình yêu nào cũng đòi hỏi những khổ chế để có thể trung tín đến cùng. Để tình yêu có thể lớn lên, tu sĩ phải giữ cho tình yêu ấy không có sự thỏa hiệp nào. “Phòng bệnh hơn chữa bệnh.” Dù ngọt ngào và ngay cả vô tội như mối tình nhỏ làm dao động, tu sĩ cũng phải từ khước ngay, khi nó làm họ không hoàn toàn tự do trong việc hiến thân cho Chúa. Các nhà hướng dẫn thiêng liêng nhận định rằng thường là quá trễ để ngăn ngừa nguy hại, thường là nguy hại nghiêm trọng, nếu chúng ta chờ đề cập đến các vấn nạn của đời sống tính dục khi mà chúng đã hình thành các tương quan bất hợp pháp (illicit relationship). Tu sĩ phải ngay thẳng thành thật nhận định ở đâu, khi nào, với ai, (where, when, and with whom) họ dễ phản bội lý tưởng sống. Cần cương quyết rời bỏ những hoàn cảnh, con người đó. Đừng nghĩ rằng mình là thiên thần. Người tu sĩ không nên hổ thẹn mà phải trung thực xem xét những cám dỗ và ước muốn có thể dẫn dắt mình đến những hành vi không thích hợp với lời khấn khiết tịnh. Cần tìm sự giúp đỡ để chữa lành những ham muốn và nghiêng chiều cám dỗ. Luôn nhớ đến phận người mỏng dòn để xin Chúa giúp sức. Cạm bẫy của người nữ là thích gặp, tìm lý do để gặp, tỏ ra yếu đuối để được giúp đỡ. Giữ khiết tịnh ngày nay khó hơn ngày xưa vì hoàn cảnh tự do. Người tu sĩ phải kinh nghiệm được Thiên Chúa là mối tình duy nhất của mình. Nhiều khi họ phải chiến đấu với cả bao nước mắt đau thương, để trung thành với tình yêu duy nhất đó.

Tuy nhiên, cũng nên tránh hai thái độ cực đoan, hoặc là thân mật quá trớn, hoặc là tránh tiếp xúc với người khác phái. Không bao giờ đụng chạm, hay cái đụng chạm hàm hồ ý nghĩa (confusing touch), đều không tốt. Có những đụng chạm tốt lành đem lại an ủi lúc gặp thử thách. Cần hiểu biết chính mình, ý chí mình mạnh tới đâu, thân xác mình yếu đuối tới đâu, để có thể sống trưởng thành và triển nở các mối tương giao.

Thận trọng trong chọn lựa hình thức giải trí và nơi chốn giải trí, để tránh các “dịp tội.” Thống kê cho thấy rằng xem hình ảnh khiêu dâm, say sưa rượu bia, là các dịp cho các ước muốn bất chính và tội thể xác. Tu sĩ cần xem xét lương tâm xem những ảnh hưởng trên đời sống chính mình qua các giải trí, phim ảnh, ti vi, sách báo, du lịch, và các mối tương quan cá nhân.

Nhân đức và huấn luyện tính dục của tu sĩ

Á đông nhấn mạnh đến trung dung trong rèn luyện nhân đức.

Ứng viên vào đời sống tu sĩ khiết tịnh phải được rèn luyện qua nhiều giai đoạn. Ứng viên cần có sự trưởng thành nhân cách, tâm lý. Ứng viên phải có óc phân định, sự lựa chọn sáng suốt. Họ cần được thanh luyện tâm hồn để biết yêu cách vô vị lợi và dấn thân dâng hiến. Trông cậy ơn Chúa, hãm mình, gìn giữ ngũ quan, khôn ngoan, thận trọng.

Đạo đức về nhân đức không tập trung vào các quyết định hay các quy luật mà chúng ta gắn bó, nhưng vào “chúng ta là ai” khi chúng ta lấy các quyết định đó hoặc thực hiện các quy luật đó. Các nhân đức còn giúp chúng ta hiểu biết sự liên hệ hội nhập giữa tính cách và hành động, giữa những gì chúng ta làm và mẫu người chúng ta trở thành. Đức tính quan trọng giúp sống khiết tịnh là tự chủ (self-control) và tiết độ. Ngạn ngữ Đức có câu: “Dễ dãi là phương châm của thể xác và là tro nguội của tâm hồn.” Một số thần học gia ngày nay xem nhân đức tự tôn trọng (self-esteem) là một trong bốn nhân đức trụ, xét theo mối tương quan của một người trong đời sống hàng ngày với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình.  Đặc biệt người nữ cần biết phát huy nhân đức này: mình có biết tự tôn trọng phẩm giá cao quý của mình trước hết thì người khác mới dễ tôn trọng mình. Một linh mục trong dịp mừng lễ kim khánh chia sẻ một trong các phương thức giúp ngài sống độc thân thánh hiến là trong tương quan với phụ nữ, thực hiện ba chữ : “necessitas” (cần thiết), “brevitas” (ngắn gọn) và “gravitas” (nghiêm trang). Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI có lần nhắc nhở giới tu sĩ rằng tinh thần tục hóa đang đi vào, lan tràn trong đời tu và ảnh hưởng trên cả ba lời khấn.

  1. Đời sống thiêng liêng:

Nguyên tắc: Sự thân thiết với Thiên Chúa và tình bạn với Đức Kitô – gốc rễ của ơn gọi thánh hiến – củng cố và gìn giữ sự trung thành của người tu sĩ. Chính tình yêu này đã khởi đầu đời sống dấn thân theo Chúa, những cam kết của khiết tịnh không thể tiếp tục hoặc triển nở mà không có sự tăng trưởng của tình yêu.[3] Theo tờ Records của giáo phận Perth, Australia, một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục, nay đã hoàn tục, tâm sự: “tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi”.

Vài hướng dẫn:

Đây nên là quan tâm hàng đầu của mọi tu sĩ: tìm kiếm sự hiện diện có ý thức của Thiên Chúa qua cầu nguyện riêng như chiêm niệm, xét mình, và cầu nguyện, giờ kinh chung cộng đoàn. Trong thực hành nghề nghiệp, tu sĩ có thể học tôn kính sự hiện diện Thiên Chúa như khung trời trong đó họ sống, học nhận biết sự quan phòng vô biên của Thiên Chúa, là lực kéo người tu sĩ vào công cuộc cứu độ nhân loại, học tìm kiếm Thiên Chúa trong mọi sự.

Bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể vốn cử hành chung với cộng đoàn, phải trở thành trung tâm của đời sống. Và bí tích hòa giải, tìm được sự hòa giải với Thiên Chúa và với anh chị em, được bình an nội tâm.

Đời sống cộng đoàn, tình bạn thiêng liêng: đây không phải là “bù trừ” cho một người chồng, người vợ, hay con cái, nhưng đúng hơn là nó có thể nâng đỡ cá nhân. Một anh chị em sa ngã về đức khiết tịnh, bản thân người đó có trách nhiệm trước mặt Chúa, phải xét về lối sống của chính mình. Nhưng thông thường, cộng đoàn, anh chị em cũng có trách nhiệm về sự sa ngã của người anh chị em mình. Đôi khi một giọt nước làm tràn ly gần đầy, một cảm giác bị bỏ rơi, bị ganh ghét trong cộng đoàn là một lực đẩy cuối cùng làm người anh chị em buông theo những dục vọng con người bình thường. Vậy một trong yếu tố giúp sống khiết tịnh, hãy nhớ “luật vàng” trong đời sống luân lý hằng ngày “đừng làm cho người khác điều gì chính bạn không muốn người khác làm cho mình”. Tích cực hơn, “hãy làm cho người khác điều gì bạn muốn người khác làm cho mình”.

Kết luận

Lời mời gọi Kitô hữu là lời mời gọi lớn lên hằng ngày. Chúa Kitô gọi chúng ta và cho chúng ta ân sủng để đáp trả. Các câu chuyện Kinh Thánh nhắc nhở chúng ta phải tiến lên về phía trước mỗi ngày. Hãy làm chứng bằng chính đời sống chúng ta. Các nhà thần học luân lý nhắc nhở nhau: “thực hành điều chúng ta rao giảng” (practice what we preach).

Như đã nói ở phần mở đầu, con người là hồn và xác. Hành vi thân xác làm thành chính con người chúng ta. Chúng ta kinh nghiệm rằng thân xác có thể là một nguồn mạch vui mừng, trợ lực và phương tiện để chúng ta nên thánh, nhưng đồng thời có thể là nguồn đau khổ, một công cụ của hư hỏng.[4] Sống khiết tịnh tu trì là một thách thức đáng kể, đặc biệt trong thế giới ngày nay khi con người có khuynh hướng dễ dãi với diễn tả xác thịt hơn, nhiều phương tiện truyền thông đầy dẫy những cám dỗ tình dục, và khi mà những rào cản bên ngoài của đời tu dường như nới rộng hơn. Mỗi người chịu trách nhiệm trong sự lớn lên của hành vi thân xác vốn gắn liền với đời sống tinh thần và thiêng liêng. Toàn thể con người lớn lên hay ngã quỵ cùng với sự lớn lên hay ngã quỵ của thân xác. Nhân đức khiết tịnh tu trì tập trung sức mạnh của tính dục để mở ra khả năng của người tu sĩ khám phá mầu nhiệm của người khác và tương quan với người khác trong một cách thức yêu thương trong sáng và không chiếm hữu. Khả năng sống tương quan trưởng thành và trung thực trong sáng là chìa khóa cho một đời sống thiêng liêng trưởng thành và đích thực. Có như thế, người tu sĩ mới có thể làm chứng cho niềm tin và hy vọng vào Tình yêu Thiên Chúa vĩnh cửu.

[1] Phạm thị Mộng Điệp, Les Plantes médicinales du Vietnam, Luận án tiến sĩ Dược, Đại hoc Clermont, Khoa Dược, 1990), 27.

[2] Lucie Licheri, Par Un Simple Oui, (Les Editions du Cerf, 1994). Bản dịch Việt ngữ, 113-4.

[3] “Chastity in the Society of Jesus,” n. 245, p119.

[4] Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Bình Tĩnh, Dịch giả, Quan Niệm Kitô Giáo về Con Người, (Đại Chủng Viện Huế, Lưu Hành nội bộ, 1997), 62. Nguyên bản tiếng Pháp Jean Mouroux, Sens Chrétien de L’Homme

Nt. Elisabeth Trần Như Ý Lan, CND-CSA
Nguồn: dongducba.net
Thông tin khác:
Bài Hát Dâng Hoa (02/07/2018)
Tĩnh Tâm Tháng 3 (02/07/2018)
Tĩnh Tâm Tháng 4 (02/07/2018)
Tĩnh Tâm Tháng 5 (02/07/2018)
Hội Dòng Mến Thánh Giá Hưng Hoá Chúc Mừng Năm Mới
FANPAGE FACEBOOK VÀ YOUTUBE
Thiết kế web - Thiet ke website: OnIP™ - www.onip.vn - mCMS.
Origin site: www.mtghunghoa.org!
log